cảm nhận bài thơ đi đường

Cảm nhận về bài thơ Đi đường của Hồ Chí Minh trong tài liệu bài văn hay lớp 8 Chúng tôi đã tổng hợp: Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó. Phân tích đoạn trích Hai cây phong, Phân tích Trạng nguyên của Trần Quốc Tuấn Cảm nhận về bài thơ Hai chữ đất nước, Cảm nhận Cảm nhận bài thơ “Đi đường” lớp 8 hay đầy đủ. Minh Tiến 24/12/2018 Những bài văn mẫu hay nhất 411 Views. Trong thời kì Bác bị giam ở nhà tù Tưởng Giới Thạch, tác phẩm “Nhật ký trong tù” là tác phẩm có nhiều giá trị nhất cho nền văn học nước nhà. Bài thơ có tên Cảm nhận về bài thơ Đi đường của Hồ Chí Minh – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nam Định. Đi đường là bài thơ trong tập Nhật kí trong tù. Lúc bấy giờ, Hồ Chí Minh đã bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giải qua nhiều nhà tù trên tỉnh Quảng Tây, Trung Bài thơ mượn chuyện đi đường, thi nhân nêu lên cảm nhận đường đời vô cùng khó khăn, nguy hiểm, phải có quyết tâm cao, nghị lực lớn mới chiến thắng thử thách, mới giành được thắng lợi vẻ vang. Trong chương trình Ngữ Văn 8 có đề văn bài văn cảm nhận bài thơ Bài thơ Tống biệt hành của Thâm Tâm kết thúc bằng bốn câu: “Người đi? ừ nhỉ… người đi thực…”.”Chiếc lá bay”, “hạt bụi”, “hơi rượu say” trong ba câu cuối là để chỉ ai? Từ đó, anh (chị) cảm nhận được gì về tâm trạng của người ra đi trong bài thơ? Site De Rencontre Serieux Et Gratuit Pour Seniors. Văn mẫu lớp 8 Cảm nhận về bài thơ Đi đường của Hồ Chí Minh gồm 3 mẫu SIÊU HAY, kèm theo dàn ý chi tiết. Qua đó, sẽ giúp các em học sinh lớp 8 hiểu sâu sắc hơn về hình ảnh của người chiến sĩ cách mạng trong gian lao. Qua bài thơ Đi đường – Tẩu lộ, còn cho chúng ta thấy rõ sự kiên cường, rắn rỏi, đầy lạc quan của một người chiến sĩ cách mạng. Với người chiến sĩ vượt qua khó khăn chồng chất, nhất định sẽ đi tới vinh quang. Mời các em cùng theo dõi bài viết Bạn đang xem Cảm nhận về bài thơ Đi đường Dàn ý + 3 mẫu Đề bài Cảm nhận về bài thơ “Đi đường” của Hồ Chí Minh. Mục lục1 Dàn ý Cảm nhận về bài thơ Đi đường2 Cảm nhận về bài thơ Đi đường – Mẫu 13 Cảm nhận về bài thơ Đi đường – Mẫu 24 Cảm nhận về bài thơ Đi đường – Mẫu Xem thêm Cảm nhận về bài thơ Đi đường Dàn ý + 3 mẫu 5 Dàn ý Cảm nhận về bài thơ Đi đường6 Cảm nhận về bài thơ Đi đường – Mẫu 17 Cảm nhận về bài thơ Đi đường – Mẫu 28 Cảm nhận về bài thơ Đi đường – Mẫu 3 1. Mở bài Giới thiệu về Bác Hồ Giới thiệu về bài thơ Nằm trong tập “Nhật kí trong tù” Ý nghĩa của bài thơ Ca ngợi tinh thần, ý chí vượt gian khổ của Bác. 2. Thân bài – Hoàn cảnh sáng tác của bài thơ Được sáng tác khi Người bị giam ở nhà từ Tưởng Giới Thạch Sau những lần chuyển lao vất vả – Ý nghĩa bài thơ gửi gắm Ghi lại chân thực những khó khăn Hồ Chí Minh trải qua Khẳng định triết lý Vượt qua hết thử thách sẽ tới thành công. – Phân tích nội dung bài thơ Câu một Lời nhận xét, chiêm nghiệm từ thực tế. Câu thơ là lời nhận xét từ kinh nghiệm di chuyển của người tù với xiềng xích Bác Hồ thấu hiểu những khó khăn, gian khổ ấy “Tẩu lộ” Lặp lại, cho thấy những chặng đường dài cứ nối tiếp nhau, không thấy đích đến. → Khó khăn chồng chất, đường dài kéo lê chân người tù, miêu tả chân thực hiện thực→ Rút ra kinh nghiệm sống Phải bắt tay vào công việc mới thấy được khó khăn. → Những khó khăn mà Cách mạng đang gặp phải trong những buổi đầu. Câu hai Những khó khăn, gian lao chồng chất trước mắt Bác Hồ Núi non liên tiếp xuất hiện trước tầm mắt Điệp từ “trùng san” xuất hiện ở đầu và cuối câu → Núi non trập trùng trước mắt, kéo dài bất tận không ngớt. Người tù phải trải qua hết khó khăn này tới khó khăn khác, phải vượt chặng đường dài → Khó khăn vất vả. Miêu tả chặng đường Cách mạng với nhiều khó khăn trước mắt, cần người chiến sĩ Cách mạng có ý chí kiên cường. Hai câu thơ cuối Khẳng định kết quả sau khi vượt qua mọi khó khăn Câu ba Hình ảnh núi non tiếp nối, nhịp điệu câu thơ dồn dập, hối hả tiến về phía trước, bước chân tới “tận cùng” đỉnh núi. Câu bốn Niềm hạnh phúc vỡ òa khi được đứng trước thiên nhiên rộng lớn. Nhịp thơ ở đây nhanh, mạnh mẽ, hối hả, cảm xúc vui sướng dạt dào. Hình ảnh Hồ Chí Minh vui sướng như được tự do khi đứng trước thiên nhiên. → Muốn khẳng định Con đường Cách mạng phải vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ, nhưng khi vượt qua hết, nhất định sẽ có được thắng lợi vẻ vang. – Kết luận chung Bài thơ là bức tranh hiện thực của Hồ Chí Minh khi chuyển lao ở nhà tù Tưởng Giới Thạch. Bức tranh về ý chí kiên cường cũng như tâm hồn thơ đầy xúc cảm của một người chiến sĩ Cách mạng. Gửi gắm chân lý về cuộc đời cũng như con đường Cách mạng gian khổ, khó khăn, gập ghềnh, cần ý chí kiên cường, nhưng thành công sẽ vô cùng xứng đáng. 3. Kết bài – Khẳng định lại vấn đề. – Hồ Chí Minh – Người chiến sĩ Cách mạng, thi nhân xuất sắc của dân tộc. Cảm nhận về bài thơ Đi đường – Mẫu 1 “Đi đường” là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt số 30 trong “Nhật kí trong tù”. Lúc bấy giờ, Hồ Chí Minh đã bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giải lui giải tới qua nhiều nhà tù trên tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Trải qua bao cay đắng thử thách nặng nề, Người gửi gắm bao suy nghĩ, cảm xúc của mình vào bài thơ “Tẩu lộ” này. Nam Trân đã dịch thành thơ lục bát “Đi đường mới biết gian lao,Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;Núi cao lên đến tận cùng,Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non” Bài thơ mang hàm nghĩa tác giả mượn chuyện đi đường – để nêu lên cảm nhận đường đời vô cùng khó khăn, nguy hiểm; phải có quyết tâm cao, nghị lực mới chiến thắng thử thách, mới giành được thắng lợi vẻ vang. Hai câu đầu trong bài thơ chữ Hán có nghĩa là “Có đi đường mới biết đường đi khó,Hết lớp núi này lại tiếp đến lớp núi khác” Câu thứ nhất nêu lên một kinh nghiệm, một chiêm nghiệm sống ở đời, đó là chuyện đi đường và bài học đi đường khó. Với nhà thơ, con đường được nói tới còn là con đường cách mạng vô cùng nguy hiểm “Là gươm kề tận cổ, súng kề tai – Là thân sống chỉ coi còn một nửa” “Trăng trối – Tố Hữu. Hình ảnh con đường được miêu tả bằng điệp ngữ “trùng san” đã làm nổi bật khó khăn, thử thách chồng chất, người đi đường luôn luôn đối diện với bao gian khổ. Câu thơ chữ Hán không hề có chữ “cao”, dịch giả đã thêm vào, người đọc thơ cần biết “Đi đường mới biết gian lao,Núi cao rồi lại núi cao trập trùng” Hai câu thơ đầu về mặt văn chương chữ nghĩa không có gì mới. Ý niệm “hành lộ nan” đã xuất hiện trong cổ văn hơn nghìn năm về trước. Thế nhưng vần thơ Hồ Chí Minh hay và sâu sắc ở tính nghiệm sinh; nó cho thấy trải nghiệm của một con người “ba mươi năm ấy chân không nghỉ” Tố Hữu, để tìm đường cứu nước. Con đường mà người chiến sĩ ấy đã vượt qua đâu chỉ có “Núi cao rồi lại núi cao trập trùng” mà còn đầy phong ba bão táp, trải dài trải rộng khắp bốn biển năm châu “Đời bồi tàu lênh đênh theo sóng bểNgười đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu PhiNhững đất tự do, những trời nô lệNhững con đường cách mạng đang tìm đi…”Người đi tìm hình của nước Người xưa có nhắc “Đọc sách người ấy, đọc thơ người ấy, phải biết con người ấy” là thế. Hai câu cuối cấu trúc theo mối quan hệ điều kiện – hệ quả. Khi đã chiếm lĩnh được đỉnh cao chót vót cao phong hậu thì muôn dặm nước non vạn lí dư đồ thu cả vào tầm mắt “Núi cao lên đến tận cùng,Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non” Muốn vượt qua các lớp núi lên đỉnh cao chót vót thì phải có quyết tâm và nghị lực lớn. Chỉ có thế mới giành được thắng lợi vẻ vang, thu được kết quả tốt đẹp. Câu thơ Hồ Chí Minh hàm chứa bài học quyết tâm vượt khó, nêu cao ý chí và nghị lực trong cuộc sống để giành thắng lợi. Bài học “Đi đường” thật là vô giá đối với bất cứ ai. “Nhật kí trong tù” có nhiều bài thơ viết về đề tài “đi đường” như “Thế lộ nan”, “Tẩu lộ”, “Lộ thượng”,… Đó là những vần thơ giàu chất trí tuệ, mang ý vị triết lí, được đúc kết từ máu và nước mắt “Núi cao gặp hổ mà vô sự,Đường phẳng gặp người bị tống lao”….Xử thế từ xưa không phải dễ,Mà nay, xứ thế khó khăn hơn”Đường đời hiểm trở Bài thơ “Đi đường” cho ta bài học về đường đời nhiều khó khăn nguy hiểm, bài học về quyết tâm, vượt khó, vươn lên giành thắng lợi trên con đường đời. Mỗi cuộc đời là một trăm năm, ai cũng phải một trăm năm đi đường. Có con đường lao động mưu sinh, có con đường công danh lập nghiệp. Tuổi trẻ còn có con đường học tập. Bài thơ “Đi đường” trở thành hành trang cho mỗi chúng ta sức mạnh để vươn lên thực hiện ước mơ của mình. Cảm nhận về bài thơ Đi đường – Mẫu 2 Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vô cùng kính yêu của dân tộc Việt Nam ta. Người không chỉ là một nhà cách mạng xuất sắc mà còn đồng thời là một thi nhân vô cùng tài ba. Sinh thời, sự nghiệp sáng tác của Người cũng vô cùng đồ sộ, trong đó nổi bật nhất là tập thơ “Nhật kí trong tù”. Tập thơ gồm hai mươi bài thơ, là những tác phẩm được Người hoàn thành trong khi bị giam giữ ở nhà ngục Tưởng Giới Thạch. Trong số đó, “Đi đường” Tẩu lộ là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất, ca ngợi hình ảnh của người chiến sĩ Cách mạng trong gian lao. Trong 14 tháng bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam từ tháng 8/1942 đến tháng 9/1943, Bác đã chuyển đi trên ba chục nhà lao thuộc 13 huyện của tỉnh Quảng tây Trung Quốc.Trong cuốn sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, tác giả Trần Dân Tiên cho biết trong những lần bị áp giải đi ấy, Bác “bị trói giật khuỷu tay cổ mang xiềng xích … dầm mưa dãi nắng trèo núi qua truông… Đau khổ như vậy, nhưng Cụ vẫn vui vẻ…”. Bài thơ Đi đường khơi nguồn cảm hứng từ những lần chuyển lao đầy gian khổ ấy. Bài thơ trong nguyên tác bằng chữ Hán, đó là một bài thất ngôn tứ tuyệt 7 chữ, 4 câu. Sách giáo khoa dùng bản dịch của Nam Trân – đã chuyển thể thơ thất ngôn tứ tuyệt sang thể thơ lục bát uyển chuyển, mềm mại, trôi chảy nhưng làm giảm đi giọng điệu rắn rỏi trong nguyên tác. Hai câu đầu trong bài thơ chữ Hán có nghĩa là “Có đi đường mới biết đường đi khó,Hết lớp núi này lại tiếp đến lớp núi khác”. Câu thứ nhất nêu lên một kinh nghiệm, một chiêm nghiệm sống ở đời, đó là chuyện đi đường và bài học đi đường khó. Với nhà thơ, con đường được nói tới còn là con đường cách mạng vô cùng nguy hiểm “Là gươm kề tận cổ, súng kề tai – Là thân sống chỉ coi còn một nửa” “Trăng trối – Tố Hữu. Hình ảnh con đường được miêu tả bằng điệp ngữ “trùng san” đã làm nổi bật khó khăn, thử thách chồng chất, người đi đường luôn luôn đối diện với bao gian khổ. Câu thơ chữ Hán không hề có chữ “cao”, dịch giả đã thêm vào, người đọc thơ cần biết “Đi đường mới biết gian lao,Núi cao rồi lại núi cao trập trùng”. Hai câu thơ đầu về mặt văn chương chữ nghĩa không có gì mới. Ý niệm “hành lộ nan” đã xuất hiện trong cổ văn hơn nghìn năm về trước. Thế nhưng vần thơ Hồ Chí Minh hay và sâu sắc ở tính nghiệm sinh; nó cho thấy trải nghiệm của một con người “ba mươi năm ấy chân không nghỉ” Tố Hữu, để tìm đường cứu nước. Con đường mà người chiến sĩ ấy đã vượt qua đâu chỉ có “Núi cao rồi lại núi cao trập trùng” mà còn đầy phong ba bão táp, trải dài trải rộng khắp bốn biển năm châu “Đời bồi tàu lênh đênh theo sóng bểNgười đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu PhiNhững đất tự do, những trời nô lệNhững con đường cách mạng đang tìm đi…”Người đi tìm hình của nước Người xưa có nhắc “Đọc sách người ấy, đọc thơ người ấy, phải biết con người ấy” là thế. Hai câu cuối cấu trúc theo mối quan hệ điều kiện – hệ quả. Khi đã chiếm lĩnh được đỉnh cao chót vót cao phong hậu thì muôn dặm nước non vạn lí dư đồ thu cả vào tầm mắt “Núi cao lên đến tận cùng,Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”. Ý thơ chính, nay đột ngột bộc lộ ở câu thơ cuối. Thường có hình ảnh gây ấn tượng nhất vì thể hiện ý thơ chính gắn với chủ đề bài thơ. Nghĩa là con đường núi trập trùng, cao chất ngất cũng như con đường đời cũng dài dằng dặc và con đường cách mạng chồng chất gian lao… nhưng không phải là vô tận. Người đi đường không nản chí, biết kiên nhẫn thì rồi cuối cùng sẽ lên đến đỉnh cao chót vót, sẽ đi tới đích và sẽ đứng trên đỉnh cao của chiến thắng vẻ vang. Từ trên đỉnh cao ấy, người đi đường có thể ngắm nhìn bao quát cả đất trời bao la “Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”. Câu thơ ngụ ý sâu xa hạnh phúc lớn lao của người cách mạng sau khi giành đưực thắng lợi vẻ vang là đã trải qua bao gian khổ, hi sinh. Cảm nhận về bài thơ Đi đường – Mẫu 3 Có những bài thơ rung động lòng ta bởi những vẻ đẹp mượt mà, mềm mại của tâm tư, cảm xúc. Có những bài thơ lại làm xao xuyến trong ánh sáng lung linh lấp lánh của vẻ đẹp ngôn từ. Nhưng cũng có những bài thơ bình dị và chân phương, mộc mạc và đôn hậu kết tinh từ bao thăng trầm nếm trải của thi nhân đã đến với ta như một nốt trầm xao xuyến, đọng lại trong mỗi trái tim một mạch nguồn xúc cảm nhuần nhị mà sâu lắng vô bờ. “Đi đường” của Hồ Chí Minh là một bài thơ như thế. Bài thơ nhắn nhủ mọi người hãy giữ vững ý chí phấn đấu, chịu đựng mọi gian khổ hi sinh trên con đường đời của mình “Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nanTrùng san chi ngoại, hựu trùng sanTrùng san đăng đáo cao phong hậuVạn lí dư đồ cố miện gian.” Đi đường mới biết gian lao,Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;Núi cao lên đến tận cùng,Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non. “Đi đường” là bài thơ trích trong tập “Nhật kí trong tù” – lúc bấy giờ Hồ Chí Minh đã bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giải qua nhiều nhà tù trên tỉnh Quảng Tây – Trung Quốc với bao cay đắng, thử thách nặng nề. Bài thơ được làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt và được Nam Trân dịch thành bài thơ lục bát. Bài thơ mượn chuyện đi đường, thi nhân nêu lên cảm nhận đường đời vô cùng khó khăn, nguy hiểm, phải có quyết tâm cao, nghị lực lớn mới chiến thắng thử thách, mới giành được thắng lợi vẻ vang. Hai câu thơ đầu miêu tả cảnh đi đường của người tù là vô cùng khó khăn, gian khổ “Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nanTrùng san chi ngoại, hựu trùng san” Có đi đường mới biết đường đi khó. Câu khai đề của bài thơ như một nhận xét, một trải nghiệm rút ra từ thực tế. Nếu Bác Hồ không đi đường nhiều đến thế thì có lẽ cũng không rút ra được kết luận đó. Bác Hồ bị bọn giặc giải đi hết nhà tù này đến nhà tù khác, phải chịu bao nhọc nhằn, vất vả gấp nhiều lần so với khách bộ hành bình thường. Câu thơ “Trùng san chi ngoại, hựu trùng san” gợi lên lớp lớp những dãy núi chồng chất, liên tiếp nhau. Người tù bị giải trên đường đi, không biết đâu là nơi cuối trời, vượt qua dãy núi này rồi lại tiếp đến một dãy núi khác tưởng như bất tận và chỉ dừng lại khi tới một nhà tù khác hoặc trời quá tối, có khi tạm nghỉ trên một đống rạ ngoài đồng trống. Câu thơ còn có ý nghĩa như một lời triết lý đầy suy ngẫm con đường đi hay chính là con đường đời, con đường cách mạng, càng đi càng thấy khó khăn, chông gai chồng chất, đòi hỏi phải có ý chí nghị lực để vượt qua. Hai câu thơ kết lại, hình ảnh người đi đường đứng trên đỉnh núi cao chót vót hiện lên thật hiên ngang với một tâm hồn phơi phới niềm vui “Trùng san đăng đáo cao phong hậuVạn lí dư đồ cố miện gian.” Núi cao lên đến tận cùng,Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non. Câu thơ thứ ba như cầu nối, mạch thơ tiếp tục diễn tả những dãy núi cao nhưng là một sự cao hơn, cao đến tận cùng. Nhịp thơ như nhanh hơn, khẩn trương hơn, có phần thanh thoát như một cuộc chuẩn bị. Phảng phất trong câu thơ một thứ âm nhạc tâm hồn khoan khoái, xốn xang. Vậy điều gì đã xảy ra sau đó? Một sự gục ngã? Một sự chiến thắng? Người đọc đã trút đi được gánh nặng ngàn cân và thở phào nhẹ nhõm bởi câu thơ kết “Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”. Chỉ trong chớp mắt, tình thế đã thay đổi, tâm trạng đã thay đổi. Từ tư thế con người bị đày đọa tới kiệt sức tưởng như tuyệt vọng, người đi đường cực khổ ấy bỗng trở thành du khách ung dung, say sưa ngắm cảnh thiên nhiên, đất trời. Câu thơ tả cảnh nhưng không giấu nổi một tiếng reo vui hạnh phúc ở bên trong, niềm hạnh phúc chân chính của một con người đã vượt qua bao chặng đường khổ ải, đã đi và đã đến với cái đích, đang ở đỉnh cao vời vợi. Câu thơ mang một ý nghĩa triết lí trong cuộc sống vượt qua khó khăn thử thách con người sẽ đi đến đích của thành công. Câu thơ đã làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn ý chí nghị lực của Hồ Chí Minh dù khó khăn, vất vả đến đâu, người chiến sĩ ấy vẫn không ngã lòng. “Đi đường” hay chính là con đường mà Người đang theo đuổi để thực hiện lý tưởng cao đẹp. Người đã chủ động, chấp nhận mọi khó khăn, vượt lên trên hoàn cảnh. Cách mạng phải lâu, gian khổ nhưng nhất định sẽ thắng lợi. Bài thơ khép lại trong ý thơ triết luận về một chân lý giản đơn, cụ thể mà thật sâu sắc đường đi – đường đời của mỗi con người. Đi đường cần quyết tâm vượt núi trèo đèo để lên tới đỉnh cao nhất, tới đích. Cố gắng vượt qua tất cả những chông gai thử thách, chúng ta sẽ trưởng thành, sẽ làm chủ được mọi nỗi buồn vui trong cuộc sống. Có lẽ vì thế chỉ với bốn câu thơ cô đọng, hàm súc, ta bắt gặp cả ba khía cạnh của con người Hồ Chí Minh nhà hiền triết, nhà chiến sĩ và nhà thơ. Bài thơ như một lời ca ngợi ý chí, sự chiến đấu của con người trước những thử thách cuộc đời trên con đường đến với ước mơ. Dù được ra đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ nhưng bài thơ hôm nay và mai sau vẫn luôn mới mẻ với con người, là người bạn đường của con người. Đăng bởi Chuyên mục Tài Liệu Học Tập Xem thêm Cảm nhận về bài thơ Đi đường Dàn ý + 3 mẫu Văn mẫu lớp 8 Cảm nhận về bài thơ Đi đường của Hồ Chí Minh gồm 3 mẫu SIÊU HAY, kèm theo dàn ý chi tiết. Qua đó, sẽ giúp các em học sinh lớp 8 hiểu sâu sắc hơn về hình ảnh của người chiến sĩ cách mạng trong gian lao. Qua bài thơ Đi đường – Tẩu lộ, còn cho chúng ta thấy rõ sự kiên cường, rắn rỏi, đầy lạc quan của một người chiến sĩ cách mạng. Với người chiến sĩ vượt qua khó khăn chồng chất, nhất định sẽ đi tới vinh quang. Mời các em cùng theo dõi bài viết Đề bài Cảm nhận về bài thơ “Đi đường” của Hồ Chí Minh. Dàn ý Cảm nhận về bài thơ Đi đường 1. Mở bài Giới thiệu về Bác Hồ Giới thiệu về bài thơ Nằm trong tập “Nhật kí trong tù” Ý nghĩa của bài thơ Ca ngợi tinh thần, ý chí vượt gian khổ của Bác. 2. Thân bài – Hoàn cảnh sáng tác của bài thơ Được sáng tác khi Người bị giam ở nhà từ Tưởng Giới Thạch Sau những lần chuyển lao vất vả – Ý nghĩa bài thơ gửi gắm Ghi lại chân thực những khó khăn Hồ Chí Minh trải qua Khẳng định triết lý Vượt qua hết thử thách sẽ tới thành công. – Phân tích nội dung bài thơ Câu một Lời nhận xét, chiêm nghiệm từ thực tế. Câu thơ là lời nhận xét từ kinh nghiệm di chuyển của người tù với xiềng xích Bác Hồ thấu hiểu những khó khăn, gian khổ ấy “Tẩu lộ” Lặp lại, cho thấy những chặng đường dài cứ nối tiếp nhau, không thấy đích đến. → Khó khăn chồng chất, đường dài kéo lê chân người tù, miêu tả chân thực hiện thực→ Rút ra kinh nghiệm sống Phải bắt tay vào công việc mới thấy được khó khăn. → Những khó khăn mà Cách mạng đang gặp phải trong những buổi đầu. Câu hai Những khó khăn, gian lao chồng chất trước mắt Bác Hồ Núi non liên tiếp xuất hiện trước tầm mắt Điệp từ “trùng san” xuất hiện ở đầu và cuối câu → Núi non trập trùng trước mắt, kéo dài bất tận không ngớt. Người tù phải trải qua hết khó khăn này tới khó khăn khác, phải vượt chặng đường dài → Khó khăn vất vả. Miêu tả chặng đường Cách mạng với nhiều khó khăn trước mắt, cần người chiến sĩ Cách mạng có ý chí kiên cường. Hai câu thơ cuối Khẳng định kết quả sau khi vượt qua mọi khó khăn Câu ba Hình ảnh núi non tiếp nối, nhịp điệu câu thơ dồn dập, hối hả tiến về phía trước, bước chân tới “tận cùng” đỉnh núi. Câu bốn Niềm hạnh phúc vỡ òa khi được đứng trước thiên nhiên rộng lớn. Nhịp thơ ở đây nhanh, mạnh mẽ, hối hả, cảm xúc vui sướng dạt dào. Hình ảnh Hồ Chí Minh vui sướng như được tự do khi đứng trước thiên nhiên. → Muốn khẳng định Con đường Cách mạng phải vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ, nhưng khi vượt qua hết, nhất định sẽ có được thắng lợi vẻ vang. – Kết luận chung Bài thơ là bức tranh hiện thực của Hồ Chí Minh khi chuyển lao ở nhà tù Tưởng Giới Thạch. Bức tranh về ý chí kiên cường cũng như tâm hồn thơ đầy xúc cảm của một người chiến sĩ Cách mạng. Gửi gắm chân lý về cuộc đời cũng như con đường Cách mạng gian khổ, khó khăn, gập ghềnh, cần ý chí kiên cường, nhưng thành công sẽ vô cùng xứng đáng. 3. Kết bài – Khẳng định lại vấn đề. – Hồ Chí Minh – Người chiến sĩ Cách mạng, thi nhân xuất sắc của dân tộc. Cảm nhận về bài thơ Đi đường – Mẫu 1 “Đi đường” là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt số 30 trong “Nhật kí trong tù”. Lúc bấy giờ, Hồ Chí Minh đã bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giải lui giải tới qua nhiều nhà tù trên tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Trải qua bao cay đắng thử thách nặng nề, Người gửi gắm bao suy nghĩ, cảm xúc của mình vào bài thơ “Tẩu lộ” này. Nam Trân đã dịch thành thơ lục bát “Đi đường mới biết gian lao,Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;Núi cao lên đến tận cùng,Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non” Bài thơ mang hàm nghĩa tác giả mượn chuyện đi đường – để nêu lên cảm nhận đường đời vô cùng khó khăn, nguy hiểm; phải có quyết tâm cao, nghị lực mới chiến thắng thử thách, mới giành được thắng lợi vẻ vang. Hai câu đầu trong bài thơ chữ Hán có nghĩa là “Có đi đường mới biết đường đi khó,Hết lớp núi này lại tiếp đến lớp núi khác” Câu thứ nhất nêu lên một kinh nghiệm, một chiêm nghiệm sống ở đời, đó là chuyện đi đường và bài học đi đường khó. Với nhà thơ, con đường được nói tới còn là con đường cách mạng vô cùng nguy hiểm “Là gươm kề tận cổ, súng kề tai – Là thân sống chỉ coi còn một nửa” “Trăng trối – Tố Hữu. Hình ảnh con đường được miêu tả bằng điệp ngữ “trùng san” đã làm nổi bật khó khăn, thử thách chồng chất, người đi đường luôn luôn đối diện với bao gian khổ. Câu thơ chữ Hán không hề có chữ “cao”, dịch giả đã thêm vào, người đọc thơ cần biết “Đi đường mới biết gian lao,Núi cao rồi lại núi cao trập trùng” Hai câu thơ đầu về mặt văn chương chữ nghĩa không có gì mới. Ý niệm “hành lộ nan” đã xuất hiện trong cổ văn hơn nghìn năm về trước. Thế nhưng vần thơ Hồ Chí Minh hay và sâu sắc ở tính nghiệm sinh; nó cho thấy trải nghiệm của một con người “ba mươi năm ấy chân không nghỉ” Tố Hữu, để tìm đường cứu nước. Con đường mà người chiến sĩ ấy đã vượt qua đâu chỉ có “Núi cao rồi lại núi cao trập trùng” mà còn đầy phong ba bão táp, trải dài trải rộng khắp bốn biển năm châu “Đời bồi tàu lênh đênh theo sóng bểNgười đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu PhiNhững đất tự do, những trời nô lệNhững con đường cách mạng đang tìm đi…”Người đi tìm hình của nước Người xưa có nhắc “Đọc sách người ấy, đọc thơ người ấy, phải biết con người ấy” là thế. Hai câu cuối cấu trúc theo mối quan hệ điều kiện – hệ quả. Khi đã chiếm lĩnh được đỉnh cao chót vót cao phong hậu thì muôn dặm nước non vạn lí dư đồ thu cả vào tầm mắt “Núi cao lên đến tận cùng,Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non” Muốn vượt qua các lớp núi lên đỉnh cao chót vót thì phải có quyết tâm và nghị lực lớn. Chỉ có thế mới giành được thắng lợi vẻ vang, thu được kết quả tốt đẹp. Câu thơ Hồ Chí Minh hàm chứa bài học quyết tâm vượt khó, nêu cao ý chí và nghị lực trong cuộc sống để giành thắng lợi. Bài học “Đi đường” thật là vô giá đối với bất cứ ai. “Nhật kí trong tù” có nhiều bài thơ viết về đề tài “đi đường” như “Thế lộ nan”, “Tẩu lộ”, “Lộ thượng”,… Đó là những vần thơ giàu chất trí tuệ, mang ý vị triết lí, được đúc kết từ máu và nước mắt “Núi cao gặp hổ mà vô sự,Đường phẳng gặp người bị tống lao”….Xử thế từ xưa không phải dễ,Mà nay, xứ thế khó khăn hơn”Đường đời hiểm trở Bài thơ “Đi đường” cho ta bài học về đường đời nhiều khó khăn nguy hiểm, bài học về quyết tâm, vượt khó, vươn lên giành thắng lợi trên con đường đời. Mỗi cuộc đời là một trăm năm, ai cũng phải một trăm năm đi đường. Có con đường lao động mưu sinh, có con đường công danh lập nghiệp. Tuổi trẻ còn có con đường học tập. Bài thơ “Đi đường” trở thành hành trang cho mỗi chúng ta sức mạnh để vươn lên thực hiện ước mơ của mình. Cảm nhận về bài thơ Đi đường – Mẫu 2 Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vô cùng kính yêu của dân tộc Việt Nam ta. Người không chỉ là một nhà cách mạng xuất sắc mà còn đồng thời là một thi nhân vô cùng tài ba. Sinh thời, sự nghiệp sáng tác của Người cũng vô cùng đồ sộ, trong đó nổi bật nhất là tập thơ “Nhật kí trong tù”. Tập thơ gồm hai mươi bài thơ, là những tác phẩm được Người hoàn thành trong khi bị giam giữ ở nhà ngục Tưởng Giới Thạch. Trong số đó, “Đi đường” Tẩu lộ là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất, ca ngợi hình ảnh của người chiến sĩ Cách mạng trong gian lao. Trong 14 tháng bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam từ tháng 8/1942 đến tháng 9/1943, Bác đã chuyển đi trên ba chục nhà lao thuộc 13 huyện của tỉnh Quảng tây Trung Quốc.Trong cuốn sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, tác giả Trần Dân Tiên cho biết trong những lần bị áp giải đi ấy, Bác “bị trói giật khuỷu tay cổ mang xiềng xích … dầm mưa dãi nắng trèo núi qua truông… Đau khổ như vậy, nhưng Cụ vẫn vui vẻ…”. Bài thơ Đi đường khơi nguồn cảm hứng từ những lần chuyển lao đầy gian khổ ấy. Bài thơ trong nguyên tác bằng chữ Hán, đó là một bài thất ngôn tứ tuyệt 7 chữ, 4 câu. Sách giáo khoa dùng bản dịch của Nam Trân – đã chuyển thể thơ thất ngôn tứ tuyệt sang thể thơ lục bát uyển chuyển, mềm mại, trôi chảy nhưng làm giảm đi giọng điệu rắn rỏi trong nguyên tác. Hai câu đầu trong bài thơ chữ Hán có nghĩa là “Có đi đường mới biết đường đi khó,Hết lớp núi này lại tiếp đến lớp núi khác”. Câu thứ nhất nêu lên một kinh nghiệm, một chiêm nghiệm sống ở đời, đó là chuyện đi đường và bài học đi đường khó. Với nhà thơ, con đường được nói tới còn là con đường cách mạng vô cùng nguy hiểm “Là gươm kề tận cổ, súng kề tai – Là thân sống chỉ coi còn một nửa” “Trăng trối – Tố Hữu. Hình ảnh con đường được miêu tả bằng điệp ngữ “trùng san” đã làm nổi bật khó khăn, thử thách chồng chất, người đi đường luôn luôn đối diện với bao gian khổ. Câu thơ chữ Hán không hề có chữ “cao”, dịch giả đã thêm vào, người đọc thơ cần biết “Đi đường mới biết gian lao,Núi cao rồi lại núi cao trập trùng”. Hai câu thơ đầu về mặt văn chương chữ nghĩa không có gì mới. Ý niệm “hành lộ nan” đã xuất hiện trong cổ văn hơn nghìn năm về trước. Thế nhưng vần thơ Hồ Chí Minh hay và sâu sắc ở tính nghiệm sinh; nó cho thấy trải nghiệm của một con người “ba mươi năm ấy chân không nghỉ” Tố Hữu, để tìm đường cứu nước. Con đường mà người chiến sĩ ấy đã vượt qua đâu chỉ có “Núi cao rồi lại núi cao trập trùng” mà còn đầy phong ba bão táp, trải dài trải rộng khắp bốn biển năm châu “Đời bồi tàu lênh đênh theo sóng bểNgười đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu PhiNhững đất tự do, những trời nô lệNhững con đường cách mạng đang tìm đi…”Người đi tìm hình của nước Người xưa có nhắc “Đọc sách người ấy, đọc thơ người ấy, phải biết con người ấy” là thế. Hai câu cuối cấu trúc theo mối quan hệ điều kiện – hệ quả. Khi đã chiếm lĩnh được đỉnh cao chót vót cao phong hậu thì muôn dặm nước non vạn lí dư đồ thu cả vào tầm mắt “Núi cao lên đến tận cùng,Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”. Ý thơ chính, nay đột ngột bộc lộ ở câu thơ cuối. Thường có hình ảnh gây ấn tượng nhất vì thể hiện ý thơ chính gắn với chủ đề bài thơ. Nghĩa là con đường núi trập trùng, cao chất ngất cũng như con đường đời cũng dài dằng dặc và con đường cách mạng chồng chất gian lao… nhưng không phải là vô tận. Người đi đường không nản chí, biết kiên nhẫn thì rồi cuối cùng sẽ lên đến đỉnh cao chót vót, sẽ đi tới đích và sẽ đứng trên đỉnh cao của chiến thắng vẻ vang. Từ trên đỉnh cao ấy, người đi đường có thể ngắm nhìn bao quát cả đất trời bao la “Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”. Câu thơ ngụ ý sâu xa hạnh phúc lớn lao của người cách mạng sau khi giành đưực thắng lợi vẻ vang là đã trải qua bao gian khổ, hi sinh. Cảm nhận về bài thơ Đi đường – Mẫu 3 Có những bài thơ rung động lòng ta bởi những vẻ đẹp mượt mà, mềm mại của tâm tư, cảm xúc. Có những bài thơ lại làm xao xuyến trong ánh sáng lung linh lấp lánh của vẻ đẹp ngôn từ. Nhưng cũng có những bài thơ bình dị và chân phương, mộc mạc và đôn hậu kết tinh từ bao thăng trầm nếm trải của thi nhân đã đến với ta như một nốt trầm xao xuyến, đọng lại trong mỗi trái tim một mạch nguồn xúc cảm nhuần nhị mà sâu lắng vô bờ. “Đi đường” của Hồ Chí Minh là một bài thơ như thế. Bài thơ nhắn nhủ mọi người hãy giữ vững ý chí phấn đấu, chịu đựng mọi gian khổ hi sinh trên con đường đời của mình “Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nanTrùng san chi ngoại, hựu trùng sanTrùng san đăng đáo cao phong hậuVạn lí dư đồ cố miện gian.” Đi đường mới biết gian lao,Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;Núi cao lên đến tận cùng,Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non. “Đi đường” là bài thơ trích trong tập “Nhật kí trong tù” – lúc bấy giờ Hồ Chí Minh đã bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giải qua nhiều nhà tù trên tỉnh Quảng Tây – Trung Quốc với bao cay đắng, thử thách nặng nề. Bài thơ được làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt và được Nam Trân dịch thành bài thơ lục bát. Bài thơ mượn chuyện đi đường, thi nhân nêu lên cảm nhận đường đời vô cùng khó khăn, nguy hiểm, phải có quyết tâm cao, nghị lực lớn mới chiến thắng thử thách, mới giành được thắng lợi vẻ vang. Hai câu thơ đầu miêu tả cảnh đi đường của người tù là vô cùng khó khăn, gian khổ “Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nanTrùng san chi ngoại, hựu trùng san” Có đi đường mới biết đường đi khó. Câu khai đề của bài thơ như một nhận xét, một trải nghiệm rút ra từ thực tế. Nếu Bác Hồ không đi đường nhiều đến thế thì có lẽ cũng không rút ra được kết luận đó. Bác Hồ bị bọn giặc giải đi hết nhà tù này đến nhà tù khác, phải chịu bao nhọc nhằn, vất vả gấp nhiều lần so với khách bộ hành bình thường. Câu thơ “Trùng san chi ngoại, hựu trùng san” gợi lên lớp lớp những dãy núi chồng chất, liên tiếp nhau. Người tù bị giải trên đường đi, không biết đâu là nơi cuối trời, vượt qua dãy núi này rồi lại tiếp đến một dãy núi khác tưởng như bất tận và chỉ dừng lại khi tới một nhà tù khác hoặc trời quá tối, có khi tạm nghỉ trên một đống rạ ngoài đồng trống. Câu thơ còn có ý nghĩa như một lời triết lý đầy suy ngẫm con đường đi hay chính là con đường đời, con đường cách mạng, càng đi càng thấy khó khăn, chông gai chồng chất, đòi hỏi phải có ý chí nghị lực để vượt qua. Hai câu thơ kết lại, hình ảnh người đi đường đứng trên đỉnh núi cao chót vót hiện lên thật hiên ngang với một tâm hồn phơi phới niềm vui “Trùng san đăng đáo cao phong hậuVạn lí dư đồ cố miện gian.” Núi cao lên đến tận cùng,Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non. Câu thơ thứ ba như cầu nối, mạch thơ tiếp tục diễn tả những dãy núi cao nhưng là một sự cao hơn, cao đến tận cùng. Nhịp thơ như nhanh hơn, khẩn trương hơn, có phần thanh thoát như một cuộc chuẩn bị. Phảng phất trong câu thơ một thứ âm nhạc tâm hồn khoan khoái, xốn xang. Vậy điều gì đã xảy ra sau đó? Một sự gục ngã? Một sự chiến thắng? Người đọc đã trút đi được gánh nặng ngàn cân và thở phào nhẹ nhõm bởi câu thơ kết “Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”. Chỉ trong chớp mắt, tình thế đã thay đổi, tâm trạng đã thay đổi. Từ tư thế con người bị đày đọa tới kiệt sức tưởng như tuyệt vọng, người đi đường cực khổ ấy bỗng trở thành du khách ung dung, say sưa ngắm cảnh thiên nhiên, đất trời. Câu thơ tả cảnh nhưng không giấu nổi một tiếng reo vui hạnh phúc ở bên trong, niềm hạnh phúc chân chính của một con người đã vượt qua bao chặng đường khổ ải, đã đi và đã đến với cái đích, đang ở đỉnh cao vời vợi. Câu thơ mang một ý nghĩa triết lí trong cuộc sống vượt qua khó khăn thử thách con người sẽ đi đến đích của thành công. Câu thơ đã làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn ý chí nghị lực của Hồ Chí Minh dù khó khăn, vất vả đến đâu, người chiến sĩ ấy vẫn không ngã lòng. “Đi đường” hay chính là con đường mà Người đang theo đuổi để thực hiện lý tưởng cao đẹp. Người đã chủ động, chấp nhận mọi khó khăn, vượt lên trên hoàn cảnh. Cách mạng phải lâu, gian khổ nhưng nhất định sẽ thắng lợi. Bài thơ khép lại trong ý thơ triết luận về một chân lý giản đơn, cụ thể mà thật sâu sắc đường đi – đường đời của mỗi con người. Đi đường cần quyết tâm vượt núi trèo đèo để lên tới đỉnh cao nhất, tới đích. Cố gắng vượt qua tất cả những chông gai thử thách, chúng ta sẽ trưởng thành, sẽ làm chủ được mọi nỗi buồn vui trong cuộc sống. Có lẽ vì thế chỉ với bốn câu thơ cô đọng, hàm súc, ta bắt gặp cả ba khía cạnh của con người Hồ Chí Minh nhà hiền triết, nhà chiến sĩ và nhà thơ. Bài thơ như một lời ca ngợi ý chí, sự chiến đấu của con người trước những thử thách cuộc đời trên con đường đến với ước mơ. Dù được ra đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ nhưng bài thơ hôm nay và mai sau vẫn luôn mới mẻ với con người, là người bạn đường của con người. 1. Dàn ý phân tích bài thơ Đi đường của Bác a. Mở bài - Nêu đôi nét về tác giả Hồ Chí Minh cùng với sự nghiệp cách mạng và sự nghiệp văn học của Bác. - Bài thơ “Đi đường” là một trong những bài thơ thể hiện phẩm chất, tinh thần lạc quan của Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. b. Thân bài - Luận điểm 1 Hành trình đi đường núi gian lao + Cách nói trực tiếp đi đường - gian lao tự bản thân phải được thực hành, được trải nghiệm thì mới hiểu được tính chất sự việc. + Điệp từ “núi cao” thể hiện sự khúc khuỷu, trùng trùng điệp điệp những ngọn núi nối tiếp nhau. => Suy ngẫm về sự khổ ải, khúc khuỷu, đầy trắc trở của cuộc đời; ý chí, nghị lực sẵn sàng vượt qua tất cả. - Luận điểm 2 Niềm vui sướng khi được đứng trên đỉnh cao của chiến thắng + Niềm vui sướng khi chinh phục được độ cao của núi “lên đến tận cùng”. + Tâm thế, vị thế của con người khi chinh phục được thiên nhiên, vượt qua được giới hạn của bản thân “thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”. => Niềm vui sướng khi được tự do đứng ngắm nhìn cảnh vật bên dưới. Sự chiêm nghiệm về cuộc đời vượt qua gian lao sẽ đến được đỉnh cao của chiến thắng. - Luận điểm 3 Nghệ thuật + Thể thơ tứ tuyệt giản dị, hàm súc. + Liên tưởng sâu sắc, thể hiện tư tưởng của tác giả. c. Kết bài - Khẳng định lại nội dung tác phẩm Bài thơ “Đi đường” đã thể hiện nghị lực, ý chí và tinh thần lạc quan vượt lên mọi hoàn cảnh của Hồ Chí Minh. - Liên hệ và đánh giá tác phẩm Qua những bài thơ như vậy, chúng ta có thể hiểu thêm được về những phẩm chất cao đẹp của Người, từ đó nhắc nhở mỗi thanh niên Việt Nam học tập và noi theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. 2. Bình giảng về tác phẩm Đi đường của Hồ Chí Minh Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh là tác phẩm văn học có giá trị lớn, là một tác phẩm quý trong kho tàng văn học Việt Nam. Nhiều bài thơ trong Nhật kí trong tù thể hiện quan niệm sống đúng đắn, trở thành bài học quý cho tất cả mọi người. Bài thơ Đi đường là một dẫn chứng tiêu biểu. Đọc bài thơ Đi đường của Bác ta lại có thêm một bài học quý giá trong đường đời. Trước hết, hình ảnh con đường trong bài thơ là con đường đi lại. Con đường lên núi thật khó khăn vất vả, nhiều gian nan, khó nhọc. Vượt qua ngọn núi này, phải trèo lên ngọn núi khác cao hơn, núi non trập trùng nối tiếp nhau. Thế nhưng, khi đã đặt chân lên đỉnh núi cao nhất, ta sẽ thấy được mọi thứ ở xung quanh, khi đó mọi khó khăn sẽ trở thành nhỏ bé. Hình ảnh con đường trong bài thơ chứa đựng một ẩn ý sâu sắc. Con đường ấy chính là cuộc đời. Cuộc đời người có lắm gian nan, vất vả. Nếu có quyết tâm và lòng kiên trì vượt qua thử thách thì nhất định sẽ có được thành quả cao. Mở đầu là một câu thơ giản dị gần như một lời nói thường "Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan" Trước hết là nghĩa cụ thể của nó. Nói “đi đường” thực chất là bị giải đi đường, là đi đày. Bác tuy không kể, không tả, nhưng chúng ta, những người đọc thơ Bác hôm nay, không thể không đặt bài thơ trong khung cảnh Bác bị giải đi triền miên giữa cảnh đói rét thiếu thốn, giữa cảnh nắng đội mưa dầm, giày dép tả tơi, 53 cây số một ngày, tay bị trói, cổ mang vòng xích. Vậy mà, câu thơ nói đi nói lại dường như chỉ là một nhận xét, một đúc kết bình thường. Từ “mới biết” nghe nhẹ nhàng, khiêm tốn nhưng chất chứa ở bên trong biết bao sóng gió cuộc đời, bao nhiêu suy nghĩ của người trong cuộc. Như thế, câu đầu trong bài “Đi đường” không chỉ là sự đúc kết trong một cuộc đi đường cụ thể, mà còn bao hàm một thái độ đánh giá, nhận thức được suy nghĩ trong suốt cả chặng đường dài trên bước đường đời nói chung, trên bước đường cách mạng nói riêng. Câu thơ do vậy vừa mang nội dung cụ thể, vừa mang nội dung khái quát. "Trùng san chi ngoại hựu trùng san" Nguyên tắc sử dụng điệp ngữ “trùng san - nhiều lớp núi chồng lên nhau” nhấn mạnh về núi non để làm rõ nghĩa cho “tẩu lộ nan - đi đường khó” ở câu khai. Bản dịch tiếng Việt cũng sử dụng điệp ngữ “núi cao”, quan hệ từ “rồi lại”, và cả tính từ láy âm “trập trùng” để cụ thể hóa “gian lao” ở câu khai. Như thế thì câu thơ dịch khá hoàn chỉnh, kể cả chất thơ. Từ sự việc có thật là lúc ở tù nhà thơ bị giải đi từ nhà lao này sang nhà lao khác ở tỉnh Quảng Tây, một tỉnh có địa hình nhiều rừng núi nhà thơ muốn nhấn mạnh đến những khó khăn không bao giờ dứt trong đời sống của mỗi người. Đường đời bình thường đi đã mệt, đường giành lại độc lập tự do đã bị thực dân tước mất thì khó khăn và nguy hiểm khôn lường. Lịch sử Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, giữ vững độc lập - tự do cho dân tộc từ thời dựng nước cho tới lúc nhà thơ bị bắt và làm bài thơ này đã chứng minh cụ thể cho sự khó khăn khôn lường ấy. Hai câu cuối "Trùng san đăng đáo cao phong hậu Vạn lí dư đồ cố miện gian" Cảnh núi non tiếp nối, không dứt, như vẽ ra trước mắt ta khung cảnh những lớp núi điệp trùng, hết lớp này đến lớp khác, trong đó con người, với tư cách là chủ thể của khung cảnh đang vượt lên những lớp núi chất chồng kia, đang đứng ở đỉnh cao ngất với niềm khoan khoái tự hào, thu vào tầm mắt cả một không gian khoáng đạt, cao rộng, cả khung cảnh gấm vóc hùng vĩ của đất nước, non sông. Câu thơ tả cảnh nhưng không giấu nổi một tiếng reo hạnh phúc ở bên trong, cái niềm hạnh phúc chân chính của một con người đã vượt qua bao chặng đường khổ ải, đã đi và đã đến đích, đang đứng ở đỉnh cao vời vợi. Trong khuôn khổ âm điệu, hình ảnh, vần luật của thơ ca cổ điển, khuôn phép, mực thước, ý thơ lại như có khuynh hướng muốn vượt ra ngoài, muốn vượt lên cái bình thường, để vươn tới cái tầm cao cả. Những câu thơ ấy mang vẻ đẹp của một thiên nhiên lớn và một tâm hồn lớn. Nó không chỉ diễn tả độ cao vời vợi của khung cảnh núi non cụ thể, nó còn diễn tả chiều cao của tầm nhìn, của ý chí, nghị lực, niềm tin, của lí tưởng cao cả, đẹp đẽ. Quả là khi đã có một lí tưởng cao cả, một bản lĩnh kiên cường, không có đỉnh cao nào mà con người không thể đạt tới. Và lúc bấy giờ còn người sẽ tìm thấy nguồn hạnh phúc vô biên. Cái kết luận ý nghĩa của bài thơ mang lại cho người đọc là như thế. Bài thơ "Đi đường" không đơn giản dừng lại ở việc nói tới chuyện đường đi khó mà hình ảnh núi cao trập trùng còn biểu tượng cho sự khó khăn vất vả trong hành trình cuộc sống và hành trình cách mạng. Người chiến sĩ cách mạng phải trải qua rất nhiều chông gai thử thách nhưng khi đã nếm đủ những trái đắng đó thì sẽ gặt hái được thành công, sẽ đem lại thắng lợi rực rỡ. Và đường đời cũng thế. Khi con người đã vượt qua thách thức thì sẽ đem lại kết quả xứng đáng, tạo nên những giá trị cao đẹp, bất tử, thiêng liêng. Bài thơ "Đi đường" ngắn gọn mà ý thơ mênh mang, gợi cho người đọc nhiều bài học ý nghĩa triết lí sâu sắc. 3. Bài văn nêu cảm nhận của em về văn bản Đi đường Bài thơ “Đi đường” có tựa đề là một cụm từ, chỉ một hệ thống. Bài thơ, do vậy có một ý nghĩa riêng, ngoài việc diễn tả cảm xúc trước cảnh núi non điệp trùng, đất trời cao rộng, hùng vĩ, nó còn thể hiện tư thế chủ động của một nhà thơ - chiến sĩ. "Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan" Trong hoàn cảnh ăn uống thiếu thốn của tù nhân, lại đeo thêm xích xiềng, đi trong mưa gió, lại không được tự do ngơi nghỉ, thì có phải là một thử thách lớn lao vô cùng? Vậy mà ở đây, lời thơ không mang nỗi oán than, mà chỉ như là một sự khám phá, một sự chiêm nghiệm về cuộc sống "Đi đường mới biết gian lao", qua đó ta cảm nhận được bản lĩnh và nghị lực của một nhà thơ chiến sĩ, Ở câu hai, tác giả tả cảnh núi non hiểm trở, cũng không hề tả nỗi nhọc nhằn vì xiềng xích của mình. Câu thơ là một cách độc thoại nội tâm, một sự suy ngẫm về lẽ đời và sự ghi chép khi đã tìm ra được một chân lí thú vị trong lúc phải chịu đựng những cảnh đọa đày phi lí, phi nhân. "Trùng san chi ngoại hựu trùng san" Điệp từ “trùng san” như mở ra trước mắt người đọc cả một con đường gập ghềnh những núi, càng nhấn mạnh sự trải dài như vô tận, không dứt hết lớp núi này đến lớp núi khác. Con đường đó dường như đối lập với sức người, vắt cạn sức lực của con người. Phải vượt qua con đường như thế mới có thể thấu hiểu được cái chân lí tưởng chừng như giản đơn “Đi đường mới biết gian lao” mà Bác đã nói ở trong câu thơ đầu. Hai câu thơ chỉ đơn giản nói chuyện đi đường vất vả, không hề trực tiếp miêu tả hình ảnh người đi đường. Nhưng ta vẫn thấy hình ảnh người đi đường xuất hiện. Con người ở đây không phải xuất hiện trong trạng thái thảnh thơi ngồi ngắm quãng đường với trập trùng những núi, không phải lữ khách du ngoạn để ngắm cảnh non sông, mây trời mà là một người tù đang phải trên đường chuyển lao. "Trùng san đăng đáo cao phong hậu Vạn lí dư đồ cố miện gian" Cả nguyên tác lẫn bản dịch đều dùng phép đảo ngữ để nhấn mạnh “trùng san - núi cao". Khó khăn nào cũng cố gắng vượt qua, núi cao nào cũng leo tới đỉnh rồi lại tiếp bước. Càng vượt được nhiều núi cao, trong thực tế, càng tích lũy được nhiều kinh nghiệm trèo đèo, lội suối, vượt qua những vực sâu… nguy hiểm. Hiểu rộng ra trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, kể cả việc học hành, càng vượt qua nhiều khó khăn càng tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong giải quyết công việc. Lúc ấy ta sẽ vững tin khi đối diện với một khó khăn mới khác trên bước đường đời. Trong cuộc đời hoạt động, Bác đã đến nhiều nơi, gặp gỡ nhiều người. Mỗi nơi, mỗi người đều giúp Bác thêm kiến thức, kinh nghiệm. Khi đã vượt qua tất cả những ngọn núi thấp để đến đỉnh ngọn cao nhất vượt qua khó khăn lớn lao nhất thì đạt đến thành công. Hình ảnh kỳ vĩ con người với thân hình nhỏ bé đứng trên đỉnh cao của ngọn núi vĩ đại một bức tranh thật hào hùng; thành công ấy thật vinh quang. Vượt qua khó khăn lớn nhất sẽ thấy rõ đường đời cái gì là trắc trở, cái gì là hạnh phúc, bình yên. Cùng Phòng GD&DT Sa Thầy đọc bài Cảm nhận về bài thơ Đi đường Dàn ý + 3 mẫu. Văn mẫu lớp 8 Cảm nhận về bài thơ Đi đường của Hồ Chí Minh gồm 3 mẫu SIÊU HAY, kèm theo dàn ý chi tiết. Qua đó, sẽ giúp các em học sinh lớp 8 hiểu sâu sắc hơn về hình ảnh của người chiến sĩ cách mạng trong gian lao. Bạn đang xem Cảm nhận về bài thơ Đi đường Dàn ý + 3 mẫu – Ngữ Văn 8 Qua bài thơ Đi đường – Tẩu lộ, còn cho chúng ta thấy rõ sự kiên cường, rắn rỏi, đầy lạc quan của một người chiến sĩ cách mạng. Với người chiến sĩ vượt qua khó khăn chồng chất, nhất định sẽ đi tới vinh quang. Mời các em cùng theo dõi bài viết Đề bài Cảm nhận về bài thơ “Đi đường” của Hồ Chí Minh. Dàn ý Cảm nhận về bài thơ Đi đường 1. Mở bài Giới thiệu về Bác Hồ Giới thiệu về bài thơ Nằm trong tập “Nhật kí trong tù” Ý nghĩa của bài thơ Ca ngợi tinh thần, ý chí vượt gian khổ của Bác. 2. Thân bài – Hoàn cảnh sáng tác của bài thơ Được sáng tác khi Người bị giam ở nhà từ Tưởng Giới Thạch Sau những lần chuyển lao vất vả – Ý nghĩa bài thơ gửi gắm Ghi lại chân thực những khó khăn Hồ Chí Minh trải qua Khẳng định triết lý Vượt qua hết thử thách sẽ tới thành công. – Phân tích nội dung bài thơ Câu một Lời nhận xét, chiêm nghiệm từ thực tế. Câu thơ là lời nhận xét từ kinh nghiệm di chuyển của người tù với xiềng xích Bác Hồ thấu hiểu những khó khăn, gian khổ ấy “Tẩu lộ” Lặp lại, cho thấy những chặng đường dài cứ nối tiếp nhau, không thấy đích đến. → Khó khăn chồng chất, đường dài kéo lê chân người tù, miêu tả chân thực hiện thực→ Rút ra kinh nghiệm sống Phải bắt tay vào công việc mới thấy được khó khăn. → Những khó khăn mà Cách mạng đang gặp phải trong những buổi đầu. Câu hai Những khó khăn, gian lao chồng chất trước mắt Bác Hồ Núi non liên tiếp xuất hiện trước tầm mắt Điệp từ “trùng san” xuất hiện ở đầu và cuối câu → Núi non trập trùng trước mắt, kéo dài bất tận không ngớt. Người tù phải trải qua hết khó khăn này tới khó khăn khác, phải vượt chặng đường dài → Khó khăn vất vả. Miêu tả chặng đường Cách mạng với nhiều khó khăn trước mắt, cần người chiến sĩ Cách mạng có ý chí kiên cường. Hai câu thơ cuối Khẳng định kết quả sau khi vượt qua mọi khó khăn Câu ba Hình ảnh núi non tiếp nối, nhịp điệu câu thơ dồn dập, hối hả tiến về phía trước, bước chân tới “tận cùng” đỉnh núi. Câu bốn Niềm hạnh phúc vỡ òa khi được đứng trước thiên nhiên rộng lớn. Nhịp thơ ở đây nhanh, mạnh mẽ, hối hả, cảm xúc vui sướng dạt dào. Hình ảnh Hồ Chí Minh vui sướng như được tự do khi đứng trước thiên nhiên. → Muốn khẳng định Con đường Cách mạng phải vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ, nhưng khi vượt qua hết, nhất định sẽ có được thắng lợi vẻ vang. – Kết luận chung Bài thơ là bức tranh hiện thực của Hồ Chí Minh khi chuyển lao ở nhà tù Tưởng Giới Thạch. Bức tranh về ý chí kiên cường cũng như tâm hồn thơ đầy xúc cảm của một người chiến sĩ Cách mạng. Gửi gắm chân lý về cuộc đời cũng như con đường Cách mạng gian khổ, khó khăn, gập ghềnh, cần ý chí kiên cường, nhưng thành công sẽ vô cùng xứng đáng. 3. Kết bài – Khẳng định lại vấn đề. – Hồ Chí Minh – Người chiến sĩ Cách mạng, thi nhân xuất sắc của dân tộc. Cảm nhận về bài thơ Đi đường – Mẫu 1 “Đi đường” là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt số 30 trong “Nhật kí trong tù”. Lúc bấy giờ, Hồ Chí Minh đã bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giải lui giải tới qua nhiều nhà tù trên tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Trải qua bao cay đắng thử thách nặng nề, Người gửi gắm bao suy nghĩ, cảm xúc của mình vào bài thơ “Tẩu lộ” này. Nam Trân đã dịch thành thơ lục bát “Đi đường mới biết gian lao,Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;Núi cao lên đến tận cùng,Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non” Bài thơ mang hàm nghĩa tác giả mượn chuyện đi đường – để nêu lên cảm nhận đường đời vô cùng khó khăn, nguy hiểm; phải có quyết tâm cao, nghị lực mới chiến thắng thử thách, mới giành được thắng lợi vẻ vang. Hai câu đầu trong bài thơ chữ Hán có nghĩa là “Có đi đường mới biết đường đi khó,Hết lớp núi này lại tiếp đến lớp núi khác” Câu thứ nhất nêu lên một kinh nghiệm, một chiêm nghiệm sống ở đời, đó là chuyện đi đường và bài học đi đường khó. Với nhà thơ, con đường được nói tới còn là con đường cách mạng vô cùng nguy hiểm “Là gươm kề tận cổ, súng kề tai – Là thân sống chỉ coi còn một nửa” “Trăng trối – Tố Hữu. Hình ảnh con đường được miêu tả bằng điệp ngữ “trùng san” đã làm nổi bật khó khăn, thử thách chồng chất, người đi đường luôn luôn đối diện với bao gian khổ. Câu thơ chữ Hán không hề có chữ “cao”, dịch giả đã thêm vào, người đọc thơ cần biết “Đi đường mới biết gian lao,Núi cao rồi lại núi cao trập trùng” Hai câu thơ đầu về mặt văn chương chữ nghĩa không có gì mới. Ý niệm “hành lộ nan” đã xuất hiện trong cổ văn hơn nghìn năm về trước. Thế nhưng vần thơ Hồ Chí Minh hay và sâu sắc ở tính nghiệm sinh; nó cho thấy trải nghiệm của một con người “ba mươi năm ấy chân không nghỉ” Tố Hữu, để tìm đường cứu nước. Con đường mà người chiến sĩ ấy đã vượt qua đâu chỉ có “Núi cao rồi lại núi cao trập trùng” mà còn đầy phong ba bão táp, trải dài trải rộng khắp bốn biển năm châu “Đời bồi tàu lênh đênh theo sóng bểNgười đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu PhiNhững đất tự do, những trời nô lệNhững con đường cách mạng đang tìm đi…”Người đi tìm hình của nước Người xưa có nhắc “Đọc sách người ấy, đọc thơ người ấy, phải biết con người ấy” là thế. Hai câu cuối cấu trúc theo mối quan hệ điều kiện – hệ quả. Khi đã chiếm lĩnh được đỉnh cao chót vót cao phong hậu thì muôn dặm nước non vạn lí dư đồ thu cả vào tầm mắt “Núi cao lên đến tận cùng,Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non” Muốn vượt qua các lớp núi lên đỉnh cao chót vót thì phải có quyết tâm và nghị lực lớn. Chỉ có thế mới giành được thắng lợi vẻ vang, thu được kết quả tốt đẹp. Câu thơ Hồ Chí Minh hàm chứa bài học quyết tâm vượt khó, nêu cao ý chí và nghị lực trong cuộc sống để giành thắng lợi. Bài học “Đi đường” thật là vô giá đối với bất cứ ai. “Nhật kí trong tù” có nhiều bài thơ viết về đề tài “đi đường” như “Thế lộ nan”, “Tẩu lộ”, “Lộ thượng”,… Đó là những vần thơ giàu chất trí tuệ, mang ý vị triết lí, được đúc kết từ máu và nước mắt “Núi cao gặp hổ mà vô sự,Đường phẳng gặp người bị tống lao”….Xử thế từ xưa không phải dễ,Mà nay, xứ thế khó khăn hơn”Đường đời hiểm trở Bài thơ “Đi đường” cho ta bài học về đường đời nhiều khó khăn nguy hiểm, bài học về quyết tâm, vượt khó, vươn lên giành thắng lợi trên con đường đời. Mỗi cuộc đời là một trăm năm, ai cũng phải một trăm năm đi đường. Có con đường lao động mưu sinh, có con đường công danh lập nghiệp. Tuổi trẻ còn có con đường học tập. Bài thơ “Đi đường” trở thành hành trang cho mỗi chúng ta sức mạnh để vươn lên thực hiện ước mơ của mình. Cảm nhận về bài thơ Đi đường – Mẫu 2 Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vô cùng kính yêu của dân tộc Việt Nam ta. Người không chỉ là một nhà cách mạng xuất sắc mà còn đồng thời là một thi nhân vô cùng tài ba. Sinh thời, sự nghiệp sáng tác của Người cũng vô cùng đồ sộ, trong đó nổi bật nhất là tập thơ “Nhật kí trong tù”. Tập thơ gồm hai mươi bài thơ, là những tác phẩm được Người hoàn thành trong khi bị giam giữ ở nhà ngục Tưởng Giới Thạch. Trong số đó, “Đi đường” Tẩu lộ là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất, ca ngợi hình ảnh của người chiến sĩ Cách mạng trong gian lao. Trong 14 tháng bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam từ tháng 8/1942 đến tháng 9/1943, Bác đã chuyển đi trên ba chục nhà lao thuộc 13 huyện của tỉnh Quảng tây Trung Quốc.Trong cuốn sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, tác giả Trần Dân Tiên cho biết trong những lần bị áp giải đi ấy, Bác “bị trói giật khuỷu tay cổ mang xiềng xích … dầm mưa dãi nắng trèo núi qua truông… Đau khổ như vậy, nhưng Cụ vẫn vui vẻ…”. Bài thơ Đi đường khơi nguồn cảm hứng từ những lần chuyển lao đầy gian khổ ấy. Bài thơ trong nguyên tác bằng chữ Hán, đó là một bài thất ngôn tứ tuyệt 7 chữ, 4 câu. Sách giáo khoa dùng bản dịch của Nam Trân – đã chuyển thể thơ thất ngôn tứ tuyệt sang thể thơ lục bát uyển chuyển, mềm mại, trôi chảy nhưng làm giảm đi giọng điệu rắn rỏi trong nguyên tác. Hai câu đầu trong bài thơ chữ Hán có nghĩa là “Có đi đường mới biết đường đi khó,Hết lớp núi này lại tiếp đến lớp núi khác”. Câu thứ nhất nêu lên một kinh nghiệm, một chiêm nghiệm sống ở đời, đó là chuyện đi đường và bài học đi đường khó. Với nhà thơ, con đường được nói tới còn là con đường cách mạng vô cùng nguy hiểm “Là gươm kề tận cổ, súng kề tai – Là thân sống chỉ coi còn một nửa” “Trăng trối – Tố Hữu. Hình ảnh con đường được miêu tả bằng điệp ngữ “trùng san” đã làm nổi bật khó khăn, thử thách chồng chất, người đi đường luôn luôn đối diện với bao gian khổ. Câu thơ chữ Hán không hề có chữ “cao”, dịch giả đã thêm vào, người đọc thơ cần biết “Đi đường mới biết gian lao,Núi cao rồi lại núi cao trập trùng”. Hai câu thơ đầu về mặt văn chương chữ nghĩa không có gì mới. Ý niệm “hành lộ nan” đã xuất hiện trong cổ văn hơn nghìn năm về trước. Thế nhưng vần thơ Hồ Chí Minh hay và sâu sắc ở tính nghiệm sinh; nó cho thấy trải nghiệm của một con người “ba mươi năm ấy chân không nghỉ” Tố Hữu, để tìm đường cứu nước. Con đường mà người chiến sĩ ấy đã vượt qua đâu chỉ có “Núi cao rồi lại núi cao trập trùng” mà còn đầy phong ba bão táp, trải dài trải rộng khắp bốn biển năm châu “Đời bồi tàu lênh đênh theo sóng bểNgười đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu PhiNhững đất tự do, những trời nô lệNhững con đường cách mạng đang tìm đi…”Người đi tìm hình của nước Người xưa có nhắc “Đọc sách người ấy, đọc thơ người ấy, phải biết con người ấy” là thế. Hai câu cuối cấu trúc theo mối quan hệ điều kiện – hệ quả. Khi đã chiếm lĩnh được đỉnh cao chót vót cao phong hậu thì muôn dặm nước non vạn lí dư đồ thu cả vào tầm mắt “Núi cao lên đến tận cùng,Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”. Ý thơ chính, nay đột ngột bộc lộ ở câu thơ cuối. Thường có hình ảnh gây ấn tượng nhất vì thể hiện ý thơ chính gắn với chủ đề bài thơ. Nghĩa là con đường núi trập trùng, cao chất ngất cũng như con đường đời cũng dài dằng dặc và con đường cách mạng chồng chất gian lao… nhưng không phải là vô tận. Người đi đường không nản chí, biết kiên nhẫn thì rồi cuối cùng sẽ lên đến đỉnh cao chót vót, sẽ đi tới đích và sẽ đứng trên đỉnh cao của chiến thắng vẻ vang. Từ trên đỉnh cao ấy, người đi đường có thể ngắm nhìn bao quát cả đất trời bao la “Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”. Câu thơ ngụ ý sâu xa hạnh phúc lớn lao của người cách mạng sau khi giành đưực thắng lợi vẻ vang là đã trải qua bao gian khổ, hi sinh. Cảm nhận về bài thơ Đi đường – Mẫu 3 Có những bài thơ rung động lòng ta bởi những vẻ đẹp mượt mà, mềm mại của tâm tư, cảm xúc. Có những bài thơ lại làm xao xuyến trong ánh sáng lung linh lấp lánh của vẻ đẹp ngôn từ. Nhưng cũng có những bài thơ bình dị và chân phương, mộc mạc và đôn hậu kết tinh từ bao thăng trầm nếm trải của thi nhân đã đến với ta như một nốt trầm xao xuyến, đọng lại trong mỗi trái tim một mạch nguồn xúc cảm nhuần nhị mà sâu lắng vô bờ. “Đi đường” của Hồ Chí Minh là một bài thơ như thế. Bài thơ nhắn nhủ mọi người hãy giữ vững ý chí phấn đấu, chịu đựng mọi gian khổ hi sinh trên con đường đời của mình “Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nanTrùng san chi ngoại, hựu trùng sanTrùng san đăng đáo cao phong hậuVạn lí dư đồ cố miện gian.” Đi đường mới biết gian lao,Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;Núi cao lên đến tận cùng,Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non. “Đi đường” là bài thơ trích trong tập “Nhật kí trong tù” – lúc bấy giờ Hồ Chí Minh đã bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giải qua nhiều nhà tù trên tỉnh Quảng Tây – Trung Quốc với bao cay đắng, thử thách nặng nề. Bài thơ được làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt và được Nam Trân dịch thành bài thơ lục bát. Bài thơ mượn chuyện đi đường, thi nhân nêu lên cảm nhận đường đời vô cùng khó khăn, nguy hiểm, phải có quyết tâm cao, nghị lực lớn mới chiến thắng thử thách, mới giành được thắng lợi vẻ vang. Hai câu thơ đầu miêu tả cảnh đi đường của người tù là vô cùng khó khăn, gian khổ “Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nanTrùng san chi ngoại, hựu trùng san” Có đi đường mới biết đường đi khó. Câu khai đề của bài thơ như một nhận xét, một trải nghiệm rút ra từ thực tế. Nếu Bác Hồ không đi đường nhiều đến thế thì có lẽ cũng không rút ra được kết luận đó. Bác Hồ bị bọn giặc giải đi hết nhà tù này đến nhà tù khác, phải chịu bao nhọc nhằn, vất vả gấp nhiều lần so với khách bộ hành bình thường. Câu thơ “Trùng san chi ngoại, hựu trùng san” gợi lên lớp lớp những dãy núi chồng chất, liên tiếp nhau. Người tù bị giải trên đường đi, không biết đâu là nơi cuối trời, vượt qua dãy núi này rồi lại tiếp đến một dãy núi khác tưởng như bất tận và chỉ dừng lại khi tới một nhà tù khác hoặc trời quá tối, có khi tạm nghỉ trên một đống rạ ngoài đồng trống. Câu thơ còn có ý nghĩa như một lời triết lý đầy suy ngẫm con đường đi hay chính là con đường đời, con đường cách mạng, càng đi càng thấy khó khăn, chông gai chồng chất, đòi hỏi phải có ý chí nghị lực để vượt qua. Hai câu thơ kết lại, hình ảnh người đi đường đứng trên đỉnh núi cao chót vót hiện lên thật hiên ngang với một tâm hồn phơi phới niềm vui “Trùng san đăng đáo cao phong hậuVạn lí dư đồ cố miện gian.” Núi cao lên đến tận cùng,Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non. Câu thơ thứ ba như cầu nối, mạch thơ tiếp tục diễn tả những dãy núi cao nhưng là một sự cao hơn, cao đến tận cùng. Nhịp thơ như nhanh hơn, khẩn trương hơn, có phần thanh thoát như một cuộc chuẩn bị. Phảng phất trong câu thơ một thứ âm nhạc tâm hồn khoan khoái, xốn xang. Vậy điều gì đã xảy ra sau đó? Một sự gục ngã? Một sự chiến thắng? Người đọc đã trút đi được gánh nặng ngàn cân và thở phào nhẹ nhõm bởi câu thơ kết “Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”. Chỉ trong chớp mắt, tình thế đã thay đổi, tâm trạng đã thay đổi. Từ tư thế con người bị đày đọa tới kiệt sức tưởng như tuyệt vọng, người đi đường cực khổ ấy bỗng trở thành du khách ung dung, say sưa ngắm cảnh thiên nhiên, đất trời. Câu thơ tả cảnh nhưng không giấu nổi một tiếng reo vui hạnh phúc ở bên trong, niềm hạnh phúc chân chính của một con người đã vượt qua bao chặng đường khổ ải, đã đi và đã đến với cái đích, đang ở đỉnh cao vời vợi. Câu thơ mang một ý nghĩa triết lí trong cuộc sống vượt qua khó khăn thử thách con người sẽ đi đến đích của thành công. Câu thơ đã làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn ý chí nghị lực của Hồ Chí Minh dù khó khăn, vất vả đến đâu, người chiến sĩ ấy vẫn không ngã lòng. “Đi đường” hay chính là con đường mà Người đang theo đuổi để thực hiện lý tưởng cao đẹp. Người đã chủ động, chấp nhận mọi khó khăn, vượt lên trên hoàn cảnh. Cách mạng phải lâu, gian khổ nhưng nhất định sẽ thắng lợi. Bài thơ khép lại trong ý thơ triết luận về một chân lý giản đơn, cụ thể mà thật sâu sắc đường đi – đường đời của mỗi con người. Đi đường cần quyết tâm vượt núi trèo đèo để lên tới đỉnh cao nhất, tới đích. Cố gắng vượt qua tất cả những chông gai thử thách, chúng ta sẽ trưởng thành, sẽ làm chủ được mọi nỗi buồn vui trong cuộc sống. Có lẽ vì thế chỉ với bốn câu thơ cô đọng, hàm súc, ta bắt gặp cả ba khía cạnh của con người Hồ Chí Minh nhà hiền triết, nhà chiến sĩ và nhà thơ. Bài thơ như một lời ca ngợi ý chí, sự chiến đấu của con người trước những thử thách cuộc đời trên con đường đến với ước mơ. Dù được ra đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ nhưng bài thơ hôm nay và mai sau vẫn luôn mới mẻ với con người, là người bạn đường của con người. Văn mẫu lớp 8 Cảm nhận về bài thơ Đi đường của Hồ Chí Minh gồm 3 mẫu SIÊU HAY, kèm theo dàn ý chi tiết. Qua đó, sẽ giúp các em học sinh lớp 8 hiểu sâu sắc hơn về hình ảnh của người chiến sĩ cách mạng trong gian lao. Qua bài thơ Đi đường – Tẩu lộ, còn cho chúng ta thấy rõ sự kiên cường, rắn rỏi, đầy lạc quan của một người chiến sĩ cách mạng. Với người chiến sĩ vượt qua khó khăn chồng chất, nhất định sẽ đi tới vinh quang. Mời các em cùng theo dõi bài viết Đề bài Cảm nhận về bài thơ “Đi đường” của Hồ Chí Minh. Dàn ý Cảm nhận về bài thơ Đi đường 1. Mở bài Giới thiệu về Bác Hồ Giới thiệu về bài thơ Nằm trong tập “Nhật kí trong tù” Ý nghĩa của bài thơ Ca ngợi tinh thần, ý chí vượt gian khổ của Bác. 2. Thân bài – Hoàn cảnh sáng tác của bài thơ Được sáng tác khi Người bị giam ở nhà từ Tưởng Giới Thạch Sau những lần chuyển lao vất vả – Ý nghĩa bài thơ gửi gắm Ghi lại chân thực những khó khăn Hồ Chí Minh trải qua Khẳng định triết lý Vượt qua hết thử thách sẽ tới thành công. – Phân tích nội dung bài thơ Câu một Lời nhận xét, chiêm nghiệm từ thực tế. Câu thơ là lời nhận xét từ kinh nghiệm di chuyển của người tù với xiềng xích Bác Hồ thấu hiểu những khó khăn, gian khổ ấy “Tẩu lộ” Lặp lại, cho thấy những chặng đường dài cứ nối tiếp nhau, không thấy đích đến. → Khó khăn chồng chất, đường dài kéo lê chân người tù, miêu tả chân thực hiện thực→ Rút ra kinh nghiệm sống Phải bắt tay vào công việc mới thấy được khó khăn. → Những khó khăn mà Cách mạng đang gặp phải trong những buổi đầu. Câu hai Những khó khăn, gian lao chồng chất trước mắt Bác Hồ Núi non liên tiếp xuất hiện trước tầm mắt Điệp từ “trùng san” xuất hiện ở đầu và cuối câu → Núi non trập trùng trước mắt, kéo dài bất tận không ngớt. Người tù phải trải qua hết khó khăn này tới khó khăn khác, phải vượt chặng đường dài → Khó khăn vất vả. Miêu tả chặng đường Cách mạng với nhiều khó khăn trước mắt, cần người chiến sĩ Cách mạng có ý chí kiên cường. Hai câu thơ cuối Khẳng định kết quả sau khi vượt qua mọi khó khăn Câu ba Hình ảnh núi non tiếp nối, nhịp điệu câu thơ dồn dập, hối hả tiến về phía trước, bước chân tới “tận cùng” đỉnh núi. Câu bốn Niềm hạnh phúc vỡ òa khi được đứng trước thiên nhiên rộng lớn. Nhịp thơ ở đây nhanh, mạnh mẽ, hối hả, cảm xúc vui sướng dạt dào. Hình ảnh Hồ Chí Minh vui sướng như được tự do khi đứng trước thiên nhiên. → Muốn khẳng định Con đường Cách mạng phải vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ, nhưng khi vượt qua hết, nhất định sẽ có được thắng lợi vẻ vang. – Kết luận chung Bài thơ là bức tranh hiện thực của Hồ Chí Minh khi chuyển lao ở nhà tù Tưởng Giới Thạch. Bức tranh về ý chí kiên cường cũng như tâm hồn thơ đầy xúc cảm của một người chiến sĩ Cách mạng. Gửi gắm chân lý về cuộc đời cũng như con đường Cách mạng gian khổ, khó khăn, gập ghềnh, cần ý chí kiên cường, nhưng thành công sẽ vô cùng xứng đáng. 3. Kết bài – Khẳng định lại vấn đề. – Hồ Chí Minh – Người chiến sĩ Cách mạng, thi nhân xuất sắc của dân tộc. Cảm nhận về bài thơ Đi đường – Mẫu 1 “Đi đường” là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt số 30 trong “Nhật kí trong tù”. Lúc bấy giờ, Hồ Chí Minh đã bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giải lui giải tới qua nhiều nhà tù trên tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Trải qua bao cay đắng thử thách nặng nề, Người gửi gắm bao suy nghĩ, cảm xúc của mình vào bài thơ “Tẩu lộ” này. Nam Trân đã dịch thành thơ lục bát “Đi đường mới biết gian lao,Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;Núi cao lên đến tận cùng,Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non” Bài thơ mang hàm nghĩa tác giả mượn chuyện đi đường – để nêu lên cảm nhận đường đời vô cùng khó khăn, nguy hiểm; phải có quyết tâm cao, nghị lực mới chiến thắng thử thách, mới giành được thắng lợi vẻ vang. Hai câu đầu trong bài thơ chữ Hán có nghĩa là “Có đi đường mới biết đường đi khó,Hết lớp núi này lại tiếp đến lớp núi khác” Câu thứ nhất nêu lên một kinh nghiệm, một chiêm nghiệm sống ở đời, đó là chuyện đi đường và bài học đi đường khó. Với nhà thơ, con đường được nói tới còn là con đường cách mạng vô cùng nguy hiểm “Là gươm kề tận cổ, súng kề tai – Là thân sống chỉ coi còn một nửa” “Trăng trối – Tố Hữu. Hình ảnh con đường được miêu tả bằng điệp ngữ “trùng san” đã làm nổi bật khó khăn, thử thách chồng chất, người đi đường luôn luôn đối diện với bao gian khổ. Câu thơ chữ Hán không hề có chữ “cao”, dịch giả đã thêm vào, người đọc thơ cần biết “Đi đường mới biết gian lao,Núi cao rồi lại núi cao trập trùng” Hai câu thơ đầu về mặt văn chương chữ nghĩa không có gì mới. Ý niệm “hành lộ nan” đã xuất hiện trong cổ văn hơn nghìn năm về trước. Thế nhưng vần thơ Hồ Chí Minh hay và sâu sắc ở tính nghiệm sinh; nó cho thấy trải nghiệm của một con người “ba mươi năm ấy chân không nghỉ” Tố Hữu, để tìm đường cứu nước. Con đường mà người chiến sĩ ấy đã vượt qua đâu chỉ có “Núi cao rồi lại núi cao trập trùng” mà còn đầy phong ba bão táp, trải dài trải rộng khắp bốn biển năm châu “Đời bồi tàu lênh đênh theo sóng bểNgười đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu PhiNhững đất tự do, những trời nô lệNhững con đường cách mạng đang tìm đi…”Người đi tìm hình của nước Người xưa có nhắc “Đọc sách người ấy, đọc thơ người ấy, phải biết con người ấy” là thế. Hai câu cuối cấu trúc theo mối quan hệ điều kiện – hệ quả. Khi đã chiếm lĩnh được đỉnh cao chót vót cao phong hậu thì muôn dặm nước non vạn lí dư đồ thu cả vào tầm mắt “Núi cao lên đến tận cùng,Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non” Muốn vượt qua các lớp núi lên đỉnh cao chót vót thì phải có quyết tâm và nghị lực lớn. Chỉ có thế mới giành được thắng lợi vẻ vang, thu được kết quả tốt đẹp. Câu thơ Hồ Chí Minh hàm chứa bài học quyết tâm vượt khó, nêu cao ý chí và nghị lực trong cuộc sống để giành thắng lợi. Bài học “Đi đường” thật là vô giá đối với bất cứ ai. “Nhật kí trong tù” có nhiều bài thơ viết về đề tài “đi đường” như “Thế lộ nan”, “Tẩu lộ”, “Lộ thượng”,… Đó là những vần thơ giàu chất trí tuệ, mang ý vị triết lí, được đúc kết từ máu và nước mắt “Núi cao gặp hổ mà vô sự,Đường phẳng gặp người bị tống lao”….Xử thế từ xưa không phải dễ,Mà nay, xứ thế khó khăn hơn”Đường đời hiểm trở Bài thơ “Đi đường” cho ta bài học về đường đời nhiều khó khăn nguy hiểm, bài học về quyết tâm, vượt khó, vươn lên giành thắng lợi trên con đường đời. Mỗi cuộc đời là một trăm năm, ai cũng phải một trăm năm đi đường. Có con đường lao động mưu sinh, có con đường công danh lập nghiệp. Tuổi trẻ còn có con đường học tập. Bài thơ “Đi đường” trở thành hành trang cho mỗi chúng ta sức mạnh để vươn lên thực hiện ước mơ của mình. Cảm nhận về bài thơ Đi đường – Mẫu 2 Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vô cùng kính yêu của dân tộc Việt Nam ta. Người không chỉ là một nhà cách mạng xuất sắc mà còn đồng thời là một thi nhân vô cùng tài ba. Sinh thời, sự nghiệp sáng tác của Người cũng vô cùng đồ sộ, trong đó nổi bật nhất là tập thơ “Nhật kí trong tù”. Tập thơ gồm hai mươi bài thơ, là những tác phẩm được Người hoàn thành trong khi bị giam giữ ở nhà ngục Tưởng Giới Thạch. Trong số đó, “Đi đường” Tẩu lộ là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất, ca ngợi hình ảnh của người chiến sĩ Cách mạng trong gian lao. Trong 14 tháng bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam từ tháng 8/1942 đến tháng 9/1943, Bác đã chuyển đi trên ba chục nhà lao thuộc 13 huyện của tỉnh Quảng tây Trung Quốc.Trong cuốn sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, tác giả Trần Dân Tiên cho biết trong những lần bị áp giải đi ấy, Bác “bị trói giật khuỷu tay cổ mang xiềng xích … dầm mưa dãi nắng trèo núi qua truông… Đau khổ như vậy, nhưng Cụ vẫn vui vẻ…”. Bài thơ Đi đường khơi nguồn cảm hứng từ những lần chuyển lao đầy gian khổ ấy. Bài thơ trong nguyên tác bằng chữ Hán, đó là một bài thất ngôn tứ tuyệt 7 chữ, 4 câu. Sách giáo khoa dùng bản dịch của Nam Trân – đã chuyển thể thơ thất ngôn tứ tuyệt sang thể thơ lục bát uyển chuyển, mềm mại, trôi chảy nhưng làm giảm đi giọng điệu rắn rỏi trong nguyên tác. Hai câu đầu trong bài thơ chữ Hán có nghĩa là “Có đi đường mới biết đường đi khó,Hết lớp núi này lại tiếp đến lớp núi khác”. Câu thứ nhất nêu lên một kinh nghiệm, một chiêm nghiệm sống ở đời, đó là chuyện đi đường và bài học đi đường khó. Với nhà thơ, con đường được nói tới còn là con đường cách mạng vô cùng nguy hiểm “Là gươm kề tận cổ, súng kề tai – Là thân sống chỉ coi còn một nửa” “Trăng trối – Tố Hữu. Hình ảnh con đường được miêu tả bằng điệp ngữ “trùng san” đã làm nổi bật khó khăn, thử thách chồng chất, người đi đường luôn luôn đối diện với bao gian khổ. Câu thơ chữ Hán không hề có chữ “cao”, dịch giả đã thêm vào, người đọc thơ cần biết “Đi đường mới biết gian lao,Núi cao rồi lại núi cao trập trùng”. Hai câu thơ đầu về mặt văn chương chữ nghĩa không có gì mới. Ý niệm “hành lộ nan” đã xuất hiện trong cổ văn hơn nghìn năm về trước. Thế nhưng vần thơ Hồ Chí Minh hay và sâu sắc ở tính nghiệm sinh; nó cho thấy trải nghiệm của một con người “ba mươi năm ấy chân không nghỉ” Tố Hữu, để tìm đường cứu nước. Con đường mà người chiến sĩ ấy đã vượt qua đâu chỉ có “Núi cao rồi lại núi cao trập trùng” mà còn đầy phong ba bão táp, trải dài trải rộng khắp bốn biển năm châu “Đời bồi tàu lênh đênh theo sóng bểNgười đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu PhiNhững đất tự do, những trời nô lệNhững con đường cách mạng đang tìm đi…”Người đi tìm hình của nước Người xưa có nhắc “Đọc sách người ấy, đọc thơ người ấy, phải biết con người ấy” là thế. Hai câu cuối cấu trúc theo mối quan hệ điều kiện – hệ quả. Khi đã chiếm lĩnh được đỉnh cao chót vót cao phong hậu thì muôn dặm nước non vạn lí dư đồ thu cả vào tầm mắt “Núi cao lên đến tận cùng,Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”. Ý thơ chính, nay đột ngột bộc lộ ở câu thơ cuối. Thường có hình ảnh gây ấn tượng nhất vì thể hiện ý thơ chính gắn với chủ đề bài thơ. Nghĩa là con đường núi trập trùng, cao chất ngất cũng như con đường đời cũng dài dằng dặc và con đường cách mạng chồng chất gian lao… nhưng không phải là vô tận. Người đi đường không nản chí, biết kiên nhẫn thì rồi cuối cùng sẽ lên đến đỉnh cao chót vót, sẽ đi tới đích và sẽ đứng trên đỉnh cao của chiến thắng vẻ vang. Từ trên đỉnh cao ấy, người đi đường có thể ngắm nhìn bao quát cả đất trời bao la “Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”. Câu thơ ngụ ý sâu xa hạnh phúc lớn lao của người cách mạng sau khi giành đưực thắng lợi vẻ vang là đã trải qua bao gian khổ, hi sinh. Cảm nhận về bài thơ Đi đường – Mẫu 3 Có những bài thơ rung động lòng ta bởi những vẻ đẹp mượt mà, mềm mại của tâm tư, cảm xúc. Có những bài thơ lại làm xao xuyến trong ánh sáng lung linh lấp lánh của vẻ đẹp ngôn từ. Nhưng cũng có những bài thơ bình dị và chân phương, mộc mạc và đôn hậu kết tinh từ bao thăng trầm nếm trải của thi nhân đã đến với ta như một nốt trầm xao xuyến, đọng lại trong mỗi trái tim một mạch nguồn xúc cảm nhuần nhị mà sâu lắng vô bờ. “Đi đường” của Hồ Chí Minh là một bài thơ như thế. Bài thơ nhắn nhủ mọi người hãy giữ vững ý chí phấn đấu, chịu đựng mọi gian khổ hi sinh trên con đường đời của mình “Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nanTrùng san chi ngoại, hựu trùng sanTrùng san đăng đáo cao phong hậuVạn lí dư đồ cố miện gian.” Đi đường mới biết gian lao,Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;Núi cao lên đến tận cùng,Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non. “Đi đường” là bài thơ trích trong tập “Nhật kí trong tù” – lúc bấy giờ Hồ Chí Minh đã bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giải qua nhiều nhà tù trên tỉnh Quảng Tây – Trung Quốc với bao cay đắng, thử thách nặng nề. Bài thơ được làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt và được Nam Trân dịch thành bài thơ lục bát. Bài thơ mượn chuyện đi đường, thi nhân nêu lên cảm nhận đường đời vô cùng khó khăn, nguy hiểm, phải có quyết tâm cao, nghị lực lớn mới chiến thắng thử thách, mới giành được thắng lợi vẻ vang. Hai câu thơ đầu miêu tả cảnh đi đường của người tù là vô cùng khó khăn, gian khổ “Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nanTrùng san chi ngoại, hựu trùng san” Có đi đường mới biết đường đi khó. Câu khai đề của bài thơ như một nhận xét, một trải nghiệm rút ra từ thực tế. Nếu Bác Hồ không đi đường nhiều đến thế thì có lẽ cũng không rút ra được kết luận đó. Bác Hồ bị bọn giặc giải đi hết nhà tù này đến nhà tù khác, phải chịu bao nhọc nhằn, vất vả gấp nhiều lần so với khách bộ hành bình thường. Câu thơ “Trùng san chi ngoại, hựu trùng san” gợi lên lớp lớp những dãy núi chồng chất, liên tiếp nhau. Người tù bị giải trên đường đi, không biết đâu là nơi cuối trời, vượt qua dãy núi này rồi lại tiếp đến một dãy núi khác tưởng như bất tận và chỉ dừng lại khi tới một nhà tù khác hoặc trời quá tối, có khi tạm nghỉ trên một đống rạ ngoài đồng trống. Câu thơ còn có ý nghĩa như một lời triết lý đầy suy ngẫm con đường đi hay chính là con đường đời, con đường cách mạng, càng đi càng thấy khó khăn, chông gai chồng chất, đòi hỏi phải có ý chí nghị lực để vượt qua. Hai câu thơ kết lại, hình ảnh người đi đường đứng trên đỉnh núi cao chót vót hiện lên thật hiên ngang với một tâm hồn phơi phới niềm vui “Trùng san đăng đáo cao phong hậuVạn lí dư đồ cố miện gian.” Núi cao lên đến tận cùng,Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non. Câu thơ thứ ba như cầu nối, mạch thơ tiếp tục diễn tả những dãy núi cao nhưng là một sự cao hơn, cao đến tận cùng. Nhịp thơ như nhanh hơn, khẩn trương hơn, có phần thanh thoát như một cuộc chuẩn bị. Phảng phất trong câu thơ một thứ âm nhạc tâm hồn khoan khoái, xốn xang. Vậy điều gì đã xảy ra sau đó? Một sự gục ngã? Một sự chiến thắng? Người đọc đã trút đi được gánh nặng ngàn cân và thở phào nhẹ nhõm bởi câu thơ kết “Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”. Chỉ trong chớp mắt, tình thế đã thay đổi, tâm trạng đã thay đổi. Từ tư thế con người bị đày đọa tới kiệt sức tưởng như tuyệt vọng, người đi đường cực khổ ấy bỗng trở thành du khách ung dung, say sưa ngắm cảnh thiên nhiên, đất trời. Câu thơ tả cảnh nhưng không giấu nổi một tiếng reo vui hạnh phúc ở bên trong, niềm hạnh phúc chân chính của một con người đã vượt qua bao chặng đường khổ ải, đã đi và đã đến với cái đích, đang ở đỉnh cao vời vợi. Câu thơ mang một ý nghĩa triết lí trong cuộc sống vượt qua khó khăn thử thách con người sẽ đi đến đích của thành công. Câu thơ đã làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn ý chí nghị lực của Hồ Chí Minh dù khó khăn, vất vả đến đâu, người chiến sĩ ấy vẫn không ngã lòng. “Đi đường” hay chính là con đường mà Người đang theo đuổi để thực hiện lý tưởng cao đẹp. Người đã chủ động, chấp nhận mọi khó khăn, vượt lên trên hoàn cảnh. Cách mạng phải lâu, gian khổ nhưng nhất định sẽ thắng lợi. Bài thơ khép lại trong ý thơ triết luận về một chân lý giản đơn, cụ thể mà thật sâu sắc đường đi – đường đời của mỗi con người. Đi đường cần quyết tâm vượt núi trèo đèo để lên tới đỉnh cao nhất, tới đích. Cố gắng vượt qua tất cả những chông gai thử thách, chúng ta sẽ trưởng thành, sẽ làm chủ được mọi nỗi buồn vui trong cuộc sống. Có lẽ vì thế chỉ với bốn câu thơ cô đọng, hàm súc, ta bắt gặp cả ba khía cạnh của con người Hồ Chí Minh nhà hiền triết, nhà chiến sĩ và nhà thơ. Bài thơ như một lời ca ngợi ý chí, sự chiến đấu của con người trước những thử thách cuộc đời trên con đường đến với ước mơ. Dù được ra đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ nhưng bài thơ hôm nay và mai sau vẫn luôn mới mẻ với con người, là người bạn đường của con người.

cảm nhận bài thơ đi đường