hợp đồng hứa thưởng

Khái niệm hợp đồng tặng cho tài sản NCS đưa ra định nghĩa về HĐTCTS như sau: "Hợp đồng tặng cho tài sản làsự thoả thuận giữa các bên, theo đó khi còn sống, bên tặng cho giao tài sản của mình vàchuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho màkhông yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ýnhận. Luật gia Đặng Đình Thịnh đòi nhà và được thân chủ "hứa thưởng" 35% giá trị căn nhà nếu thành công. Tuy nhiên thân chủ không thực hiện, vị luật gia đã kiện đòi 113 tỷ đồng. Đã có kết quả giám định sức khoẻ nữ sinh bị đánh nhập viện ở Huế. Phá đường Đồng thời công nhận "hợp đồng hứa thưởng" giữa nguyên đơn và bị đơn, buộc mẹ con bà Khanh phải trả cho ông Thịnh số tiền gần 55 tỷ đồng (tương đương 35%). Trong quá trình giải quyết vụ án nảy phát sinh nhiều quan hệ tranh chấp khác và cũng được tòa giải quyết. 44. v1.0014107225 3.1. ĐẶC ĐIỂM, PHÂN LOẠI HỢP ĐỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI (tiếp theo) 44 • Đặc điểm Chủ thể của hợp đồng: là thương nhân hoặc một bên là thương nhân. Thương nhân là tổ chức kinh tế, cá nhân có đăng ký kinh doanh và tiến hành hoạt động thương Theo đó, Hội đồng thẩm phán hủy hai bản án sơ và phúc thẩm vụ tranh chấp hợp đồng hứa thưởng liên quan đến căn nhà 446-448 Nguyễn Thị Minh Khai (quận 3, TPHCM) trị giá 54 tỉ đồng giữa luật gia Đặng Đình Thịnh với mẹ con bà Vương Thị Khanh (Việt kiều Mỹ). Theo đó Site De Rencontre Serieux Et Gratuit Pour Seniors. 30-03-2021 498 Lượt xem 1. Hứa thưởng là gì? Điều 570 BLDS 2015 quy định về hứa thưởng như sau Người đã công khai hứa thưởng phải trả thưởng cho người đã thực hiện công việc theo yêu cầu của người hứa thưởng. Công việc được hứa thưởng phải cụ thể, có thể thực hiện được, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Từ quy định này, ta có thể rút ra một số đặc điểm của hứa thưởng Thứ nhất, quan hệ hứa thưởng bao gồm hai chủ thể 1 Bên hứa thưởng – Cá nhân, tổ chức – Có quyền đặt ra yêu cầu về công việc phải thực hiện; hình thức, nội dung của phần thưởng; cách thức nhận thưởng… – Có nghĩa vụ phải trả thưởng cho người đã hoàn thành công việc được yêu cầu 2 Bên được hứa thưởng – Cá nhân, một nhóm người, tổ chức – Thực hiện công việc theo yêu cầu của bên hứa thưởng – Có quyền nhận thưởng mà bên hứa thưởng cam kết – Phải thông báo cho bên hứa thưởng về việc hoàn thành công việc và bàn giao lại công việc đó Thứ hai, công việc được hứa thưởng phải đảm bảo 1 tính cụ thể; 2 có thể thực hiện được và 3 không được vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái với đạo đức xã hội. 2. Những lưu ý khi sử dụng hứa thưởng Thứ nhất, nội dung công việc phải bảo đảm các tiêu chí tại khoản 2 Điều 570 BLDS 2015 xem lại phần 1 bài viết. Thứ hai, bên hứa thưởng có thể rút lại tuyên bố hứa thưởng nhưng phải thực hiện 1 trước khi đến hạn bắt đầu thực hiện công việc và 2 thông qua cách thức và trên phương tiện mà việc hứa thưởng được công bố Điều 571 BLDS 2015. Thứ ba, việc trả thưởng phải tuân thủ quy định tại Điều 572 BLDS 2015. Cụ thể 1 Một người thực hiện một công việc Trả thưởng khi người này hoàn thành công việc. 2 Nhiều người thực hiện một công việc, thực hiện độc lập với nhau Trả thưởng cho người hoàn thành công việc đầu tiên. 3 Nhiều người hoàn thành một công việc vào cùng một thời điểm Phần thưởng chia đều cho những người đó. 4 Nhiều người cộng tác thực hiện một công việc Trả cho mỗi người một phần của phần thưởng tương ứng với phần đóng góp của họ. Thứ tư, đối với những công việc phức tạp, phần thưởng giá trị lớn và xác định rõ chủ thể được hứa thưởng thì nên lập hợp đồng hứa thưởng để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ của bên hứa thưởng cũng như chất lượng của công việc được yêu cầu. Việc có căn cứ rõ ràng như hợp đồng bằng văn bản sẽ giúp các chủ thể tránh được tình trạng “hứa suông, hứa lèo” và cũng dễ dàng hơn trong giải quyết tranh chấp. Hợp đồng hứa thưởng có thể bao gồm những nội dung như 1 Thông tin về các chủ thể Bên hứa thưởng, Bên nhận thưởng; 2 Nội dung hứa thưởng; 3 Hình thức trả thưởng; 4 Điều kiện trả thưởng; 5 Cách thức trả thưởng; 6 Cam kết của các bên; 7 Chế tài xử phạt khi vi phạm hợp đồng…. Mẹo nhỏ Để tìm kiếm chính xác các bài viết của AZLAW, hãy search trên Google với cú pháp "Từ khóa" + "azlaw". Ví dụ thành lập công ty azlaw. Tìm kiếm ngay Hứa thưởng là gì? Theo quy định tại điều 570 Bộ luật dân sự 2015 có quy định về hứa thưởng Điều 570. Hứa thưởng1. Người đã công khai hứa thưởng phải trả thưởng cho người đã thực hiện công việc theo yêu cầu của người hứa Công việc được hứa thưởng phải cụ thể, có thể thực hiện được, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Tuy nhiên, theo quy tắc 9 Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ ngày 13/12/2019 của Hội đồng luật sư toàn quốc quy định về những việc luật sư không được làm trong quan hệ với khách hàng như sau Quy tắc 9. Những việc luật sư không được làm trong quan hệ với khách hàng… Hứa hẹn, cam kết bảo đảm kết quả vụ việc về những nội dung nằm ngoài khả năng, điều kiện thực hiện của luật sư. Luật sư có được hứa thưởng? Theo bài viết được đăng trên website của đoàn luật sư Hồ Chí Minh có trích đoạn sau đây Hợp đồng dịch vụ pháp lý có điều khoản hứa thưởng là vi phạm Luật Luật sư, Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư…Luật sư không được ký hợp đồng với khách hàng, trong đó có điều khoản hứa thưởng vì đây là trường hợp vi phạm điều cấm của Luật Luật sư và Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư. Nếu Luật sư nào ký hợp đồng, có điều khoản hứa thưởng, chắc chắn là vi phạm và sẽ bị xem xét xử lý kỷ luật. Phân tích theo quy định tại quy tắc đạo đức và hành nghề luật sư có một số ý kiến như sau Theo quy tắc Gợi ý, đặt điều kiện để khách hàng tặng cho tài sản hoặc lợi ích khác cho Luật sư… là quy tắc mà trong thực tiễn xử lý vi phạm thường gặp. Trên thực tế, vi phạm quy tắc này thường biến tướng thành nhiều hình thức, trong đó có hình thức lập văn bản hứa thưởng cho Luật sư bằng tiền hoặc tài sản khác. Về căn cứ và phương thức tính thù lao, trong các vụ án dân sự, kinh doanh thương mại, hành chính thì tuyệt đối tránh việc thỏa thuận lập các văn bản về hứa thưởng. Luật sư nên xác lập lợi ích của mình ngay trong hợp đồng hoặc phụ lục hợp đồng, có thể xác định thù lao Luật sư theo tỷ lệ phần trăm của giá ngạch vụ kiện hoặc giá trị hợp đồng, giá trị dự án… Điều 9 Luật Luật sư thì một trong các hành vi bị nghiêm cấm là “Nhận, đòi hỏi thêm bất kỳ một khoản tiền, lợi ích nào khác từ khách hàng ngoài khoản thù lao và chi phí đã thoả thuận với khách hàng trong hợp đồng dịch vụ pháp lý”. Do vậy, việc thỏa thuận hứa thưởng hiện nay được hiểu là vi phạm Luật Luật sư và đạo đức nghề nghiệp Luật sư. Luật sư Nguyễn Văn Hậu – Đoàn Luật sư Phó Chủ tịch Hội Luật gia cho biết nếu hợp đồng hứa thưởng ký với tư cách cá nhân và không vi phạm điều cấm của pháp luật thì hoàn toàn đúng luật, các bên đều có nghĩa vụ thực hiện cho đúng. Tuy nhiên, nếu người ký hợp đồng trên có một bên là luật gia, luật sư thì là vấn đề cần xem xét. Bởi luật sư, luật gia là những người am hiểu pháp luật, nói nôm na là “kẻ mạnh”, thế nên nếu hợp đồng có điều gì không rõ ràng thì luật ưu tiên giải thích theo hướng bảo vệ cho người “yếu thế” khoản 8 Điều 409 BLDS. Cạnh đó, luật sư Hà Hải Đoàn Luật sư cũng cho rằng nếu ký hợp đồng hứa thưởng với tư cách luật gia thì hợp đồng đó là vô hiệu. Bởi luật gia chỉ là người tham gia tổ chức chính trị xã hội, không phải là nghề. Họ am hiểu pháp lý và hỗ trợ cho mọi người với mục đích phi lợi nhuận. Không như luật sư là một nghề nghiệp, họ thực hiện một công việc cho thân chủ và được trả thù lao. Tuy nhiên, luật sư cũng không được ký các hợp đồng hứa thưởng vì điều đó vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Theo luật sư Hà Hải, trên thực tế, các luật sư mặc định rằng không được hứa thưởng với các việc liên quan đến tố tụng. Bởi hứa thưởng thì có điều kiện đảm bảo kết quả nhưng trong lĩnh vực tố tụng điều đó không khác nào “chạy án”. Còn những việc liên quan đến việc liên hệ các cơ quan hành chính để làm các thủ tục đem lại kết quả thì việc hứa thưởng là bình thường. Tuy nhiên, trong trường hợp này khách hàng hứa thưởng là phải tự nguyện, luật sư không thể ép buộc. Lưu ý Đây chỉ là mẫu hợp đồng áp dụng cho các trường hợp chung. Trên thực tế sẽ có nhiều điều khoản mà các bên cần thống nhất lại. Nếu bạn cần hợp đồng cụ thể, chi tiết để có thể đảm bảo quyền lợi cho mình, vui lòng gọi hotline để được đội ngũ luật sư tư vấn và hỗ trợ soạn thảo hợp đồng. Hợp đồng trích thưởng và hợp đồng hứa thưởng là hai loại hợp đồng đặc biệt được sử dụng phổ biến. Tuy nhiên không phải ai cũng có thể biết cách soạn thảo hợp đồng hứa thưởng đúng chuẩn theo mẫu mới nhất. Sau đây là mẫu hợp đồng trích thưởng, hứa thưởng mà Luật Quang Huy mời bạn đọc cùng tham khảo. 1. Hợp đồng trích thưởng là gì?2. Mẫu hợp đồng trích thưởng3. Hướng dẫn cách viết hợp đồng trích thưởng Hứa thưởng là cam kết của bên A sẽ thực hiện nghĩa vụ trả thưởng nếu bên B đã thực hiện được những điều kiện, thỏa thuận do bên hứa thưởng đưa ra. Đối với nội dung hứa thưởng, trích thưởng được trình bày qua hình thức là hợp đồng. Vậy Hợp đồng trích thưởng, hứa thưởng là gì? Bạn có thể tham khảo khái niệm hợp đồng trích thưởng dưới đây Hợp đồng trích thưởng là hợp đồng được lập để nhằm khuyến khích các bên trong hợp đồng trong quá trình thực hiện công việc đạt được một mục tiêu nào đó trong tương lai nhằm nâng cao hiệu suất công việc cao. Mẫu hợp đồng trích thưởng được thực hiện giữa hai bên, nhằm mục đích đảm bảo quyền lợi trong công việc, hai bên sẽ thực hiện theo một số quy định đã nêu trong bản hợp đồng, tránh một số lý do dẫn đến tranh chấp và khiếu nại, cả hai bên cùng nhau thỏa thuận và làm hợp đồng. 2. Mẫu hợp đồng trích thưởng Dưới đây là những mẫu hợp đồng trích thưởng được sử dụng phổ biến nhất, có thể dùng được trong nhiều tình huống khác nhau. Cũng như một số lưu ý bạn cần biết để có thể soạn mẫu văn bản này đúng quy định nhất. Mẫu hợp đồng trích thưởng TẢI MẪU HỢP ĐỒNG TRÍCH THƯỞNG CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh Phúc ———–o0o————- HỢP ĐỒNG TRÍCH THƯỞNG Hôm nay, ngày ….tháng…..năm 20…..tại địa điểm……………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………………………………………………. Chúng tôi gồm có ĐẠI DIỆN BÊN TRÍCH THƯỞNG Ông Bà…………………………………………….Sinh năm…………………… CMTND số……………………Do……………Cấp ngày…..tháng.….năm…….…. Hộ khẩu thường trú………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… Nơi ở hiện nay…………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………… Điện thoại…………………………………………………………………………. Sau đây gọi tắt là bên A ĐẠI DIỆN BÊN ĐƯỢC TRÍCH THƯỞNG Ông Bà…………………………………………….Sinh năm……………………. CMTND số……………………Do…………..Cấp ngày…..tháng.….năm…….…. Hộ khẩu thường trú………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… Nơi ở hiện nay…………………………………….……………………………….. ……………………………………………………………………………………… Điện thoại………………………………………………………………………….. Sau đây gọi tắt là bên B Sau khi đã bàn bạc một cách kỹ lưỡng hai bên đều nhất trí đi đến thống nhất với các điều khoản sau Điều 1 Lý do hứa thưởng ……………………………………………………………………………………………………………………………………………. ……………………………………………………………………………………………………………………………………………. ……………………………………………………………………………………………………………………………………………. ……………………………………………………………………………………………………………………………………………. Điều 2 Điều kiện trả thưởng và hình thức trả thưởng – Điều kiện trả thưởng Bên A sẽ trả thưởng cho Bên B cùng ngày Bên A khi…………………………………………………………….. …………………………………………………………………………………………………………………………………………………. ………………………………………………………………………………………………………………………………………………….. – Hình thức trả thưởng Trả thưởng bằng tiền mặt, hoặc chuyển khoản. Số tiền trả thưởng là …% giá trị hợp đồng đối tác do Bên B tìm kiếm ký kết với Bên A Điều 3 Cam kết của các bên – Cam kết của Bên A Thực hiện đúng và đầy đủ nội dung trong hợp đồng. Trả thưởng cho Bên B đúng và đủ số tiền như đã thỏa thuận – Cam kết của Bên B Thực hiện đúng và đầy đủ nội dung trong hợp đồng. Điều 4 Ký kết Hai bên đã đọc lại nguyên văn bản hợp đồng này, cùng nhất trí ký vào hợp đồng – được lập thành 02 bản chính, mỗi bản gồm 03 trang, mỗi bên giữ 01 bản đều và đều có giá trị pháp lý như nhau. Tải mẫu hợp đồng hứa thưởng dưới đây TẢI MẪU HỢP ĐỒNG TRÍCH THƯỞNG 3. Hướng dẫn cách viết hợp đồng trích thưởng Nêu rõ thông tin của hai bên ký hợp đồng bao gồm bên A và bên B với đầy đủ những thông tin như tên doanh nghiệp hoặc cá nhân, địa chỉ, mã số thuế, hoặc số chứng minh nhân dân, số điện thoại liên hệ. Trong bản hợp đồng trích thưởng, cả hai bên cùng nhau cam kết thực hiện theo các điều kiện đã nêu ban đầu, một trong hai bên có quyền chấm dứt hợp đồng nếu bên kia thực hiện không đúng theo yêu cầu. Tất cả những thông tin trên đều phải đảm bảo đúng để có thể liên hệ lúc tranh chấp hoặc mâu thuẫn. Nêu rõ lý do trích thưởng, điều kiện trích thưởng và hình thức trích thưởng theo thỏa thuận của hai bên. Phần trăm trích thưởng được ghi nhận theo sự thỏa thuận của hai bên và phải ghi rõ trong hợp đồng bằng chữ và bằng số. Trên đây là toàn bộ thông tin mà chúng tôi cung cấp đến bạn về vấn đề Mẫu hợp đồng trích thưởng. Để được tư vấn cụ thể hơn bạn vui lòng liên hệ Tổng đài tư vấn luật trực tuyến qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy. Trân trọng ./. Mẫu hợp đồng trích thưởng? Mẫu hợp đồng hứa thưởng? Lưu ý khi soạn thảo hợp đồng trích thưởng, hứa thưởng? Quy định về hứa thưởng trong "Bộ luật dân sự 2015"? Phân biệt hợp đồng tặng cho có điều kiện và hứa thưởng?Mẫu hợp đồng trích thưởng, hứa thưởng là các loại hợp đồng đặc biệt, được thực hiện giữa hai bên nhằm mục đích khuyến khích các bên trong quá trình làm việc. Việc hứa thưởng, trích thưởng được thực hiện khi mỗi người tiến hành làm thành công một công việc hoặc đạt kết quả kinh doanh, mang lại lợi ích kinh tế cao. Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài Hợp đồng trích thưởng, hứa thưởng thường đi kèm với hợp đồng mua bán hay hợp đồng hợp tác nào đó và nên thiết lập bằng văn bản để bảo vệ quyền lợi, lợi ích của cá nhân, tập thể sau này. Dưới đây, Luật Dương Gia muốn giới thiệu đến các bạn mẫu hợp đồng trích thưởng, hứa thưởng mới nhất để các bạn tham khảo và vận dụng trong cuộc sống hằng ngày một cách linh hoạt, tốt nhất bảo vệ lợi ích của các bên. Mục lục bài viết 1 1. Mẫu hợp đồng trích thưởng 2 2. Mẫu hợp đồng hứa thưởng 3 3. Lưu ý khi soạn thảo hợp đồng trích thưởng, hứa thưởng 4 4. Quy định về hứa thưởng trong “Bộ luật dân sự 2015” 5 5. Phân biệt hợp đồng tặng cho có điều kiện và hứa thưởng Tải về mẫu hợp đồng trích thưởng CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh Phúc ———–o0o————- HỢP ĐỒNG TRÍCH THƯỞNG Hôm nay, ngày tháng năm 20…..tại địa điểm… Chúng tôi gồm có ĐẠI DIỆN BÊN TRÍCH THƯỞNG Ông Bà….Sinh năm… CMTND số…Do….Cấp ngày…..tháng.….năm…. Hộ khẩu thường trú… Nơi ở hiện nay… Điện thoại… Sau đây gọi tắt là bên A ĐẠI DIỆN BÊN ĐƯỢC TRÍCH THƯỞNG Ông Bà…Sinh năm…… CMTND số……Do…..Cấp ngày…..tháng.….năm… Hộ khẩu thường trú… Nơi ở hiện nay… Điện thoại… Sau đây gọi tắt là bên B Sau khi đã bàn bạc một cách kỹ lưỡng hai bên đều nhất trí đi đến thống nhất với các điều khoản sau Điều 1 Lý do trích thưởng Điều 2 Điều kiện trích thưởng và hình thức trích thưởng Điều kiện trích thưởng Hình thức trích thưởng Điều 3 Cam kết của hai bên Cam kết của bên A – Thực hiện đúng và đầy đủ nội dung trong hợp đồng. – Trích thưởng cho Bên B đúng và đủ số tiền ở điều 2 – Việc trích thưởng là do Bên A tự nguyện. Cam kết của bên B. – Thực hiện đúng và đầy đủ nội dung trong hợp đồng. Điều 4 Ký kết Hai bên đã đọc lại nguyên văn bản hợp đồng này, cùng nhất trí ký vào để làm bằng chứng, hợp đồng được lập thành 02 bản chính, mỗi bản gồm ….trang, mỗi bên giữ 01 bản đều và đều có giá trị pháp lý như nhau. ĐẠI DIỆN BÊN TRÍCH THƯỞNG ĐẠI DIỆN BÊN ĐƯỢC TRÍCH THƯỞNG Ký và ghi rõ họ tên Ký và ghi rõ họ tên 2. Mẫu hợp đồng hứa thưởng Tải về mẫu hợp đồng hứa thưởng CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh Phúc ———–o0o————- HỢP ĐỒNG HỨA THƯỞNG Hôm nay, …. tại …., Chúng tôi gồm có BÊN TRẢ THƯỞNG CÔNG TY…. Mã số thuế… Địa chỉ ….. Đại diện ….. Chức vụ Tổng Giám đốc Sau đây gọi tắt là bên A BÊN NHẬN THƯỞNG CÔNG TY….. Mã số thuế…. Địa chỉ ….. Đại diện … Chức vụ Tổng Giám đốc Sau đây gọi tắt là bên B Sau khi đã bàn bạc một cách kỹ lưỡng hai bên đều nhất trí đi đến thống nhất với các điều khoản sau Điều 1 Lý do hứa thưởng Bên B thay mặt Bên A tìm đối tác mua hàng cho bên A theo các tiêu chí sau Loại hàng hóa Tất cả các mặt hàng công ty A kinh doanh với báo giá chi tiết dưới đây Thời gian xác định khối lượng hàng hóa bán ra Số hàng hóa Bên B tìm kiếm đối tác cho Bên A để bán hàng được tính từ ngày …/…/… đến ngày / /2020 Điều 2 Điều kiện trả thưởng và hình thức trả thưởng Điều kiện trả thưởng – Bên A sẽ trả thưởng cho Bên B cùng ngày Bên A ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa với đối tác mua hàng và nhận được tiền tạm ứng từ đối tác mua hàng. – Giá cả cũng như cách thức mua bán do Bên A tự thỏa thuận với bên mua hàng. – Căn cứ để xác định bên mua hàng là đơn vị do Bên B tìm kiếm Bên B sẽ thông báo cho Bên A về tên công ty dự kiến mua hàng trước khi giới thiệu cho các bên gặp mặt. Đối tác đó ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa với Bên A trong mọi trường hợp trong khoảng thời gian quy định tại điều được coi là đối tác do Bên B tìm kiếm. Hình thức trả thưởng – Trả thưởng bằng tiền mặt Việt Nam đồng – Số tiền trả thưởng là …% giá trị hợp đồng đối tác do Bên B tìm kiếm ký kết với Bên A – Bên A sẽ trả thưởng cho Bên B sau khi thỏa mãn như điều kiện trên Điều Điều 3 Cam kết của hai bên Cam kết của bên A – Thực hiện đúng và đầy đủ nội dung trong hợp đồng. – Trả thưởng cho Bên B đúng và đủ số tiền ở điều 2 – Việc trả thưởng là do Bên A tự nguyện. Cam kết của bên B Thực hiện đúng và đầy đủ nội dung trong hợp đồng. Điều 4 Ký kết Hai bên đã đọc lại nguyên văn bản hợp đồng này, cùng nhất trí ký vào để làm bằng chứng, hợp đồng được lập thành 02 bản chính, mỗi bản gồm 03 trang, mỗi bên giữ 01 bản đều và đều có giá trị pháp lý như nhau. ĐẠI DIỆN BÊN TRẢ THƯỞNG ĐẠI DIỆN BÊN ĐƯỢC TRẢ THƯỞNG 3. Lưu ý khi soạn thảo hợp đồng trích thưởng, hứa thưởng Trong hợp đồng trích thưởng, hứa thưởng cần lưu ý Nêu rõ thông tin của hai bên kí hợp đồng bao gồm bên A và bên B với đầy đủ những thông tin như tên doanh nghiệp hoặc cá nhân, địa chỉ, mã số thuế, hoặc số CMND, số điện thoại liên hệ. Tất cả những thông tin trên đều phải đảm bảo đúng để có thể liên hệ lúc tranh chấp hoặc mâu thuẫn. Nêu rõ lý do trích thưởng, điều kiện trích thưởng và hình thức trích thưởng. Trong bản hợp đồng trích thưởng, cả hai bên cùng nhau cam kết thực hiện theo các điều kiện đã nêu ban đầu, một trong hai bên có quyền chấm dứt hợp đồng nếu bên kia thực hiện không đúng theo yêu cầu. 4. Quy định về hứa thưởng trong “Bộ luật dân sự 2015” Hứa thưởng thực chất là là sự tuyên bố ý chí đơn phương của một phía chủ thể. Tuy nhiên, việc thưởng chỉ được thực hiện theo đúng lời hứa của người tuyên bố khi một người được xác định thực hiện công việc theo yêu cầu của người tuyên bố hứa thưởng. Như vậy, để có thể trả thưởng thì bao giờ cũng liên quan đến việc thực hiện công việc mà bên hứa thưởng đặt ra. Nói cách khác, hứa thưởng không giống như hợp đồng tặng cho mà thực chất của hứa thưởng là người được thưởng phải thực hiện và hoàn thành công việc theo yêu cầu của người tuyên bố hứa thưởng. Hứa thưởng được quy định tại Mục 13 Chương XVIII “Bộ luật dân sự 2015” “Điều 590. Hứa thưởng 1. Người đã công khai hứa thưởng phải trả thưởng cho người đã thực hiện công việc theo yêu cầu của người hứa thưởng. 2. Công việc được hứa thưởng phải cụ thể, có thể thực hiện được, không bị pháp luật cấm, không trái đạo đức xã hội. Điều lại tuyên bố hứa thưởng Khi chưa đến hạn bắt đầu thực hiện công việc thì người hứa thưởng có quyền rút lại tuyên bố hứa thưởng của mình. Việc rút lại tuyên bố hứa thưởng phải được thực hiện theo cách thức và trên phương tiện mà việc hứa thưởng đã được công bố. Điều thưởng 1. Trong trường hợp một công việc được hứa thưởng do một người thực hiện thì khi công việc hoàn thành, người thực hiện công việc đó được nhận thưởng. 2. Khi một công việc được hứa thưởng do nhiều người cùng thực hiện nhưng mỗi người thực hiện độc lập với nhau thì người hoàn thành đầu tiên được nhận thưởng. 3. Trong trường hợp nhiều người cùng hoàn thành công việc được hứa thưởng vào cùng một thời điểm thì phần thưởng được chia đều cho những người đó. 4. Trong trường hợp nhiều người cùng cộng tác để thực hiện công việc được hứa thưởng do người hứa thưởng yêu cầu thì mỗi người được nhận một phần của phần thưởng, tương ứng với phần đóng góp của mình”. Nghĩa vụ thực hiện công việc của người được giả định trong quan hệ hứa thưởng không phải là nghĩa vụ bắt buộc, điều đó có nghĩa là người này có thể thực hiện nhưng cũng có thể không thực hiện và nếu không thực hiện thì sẽ không nhận được giải thưởng. Ngoài ra, trong một số trường hợp bản thân người thực hiện một công việc nhất định không có ý thức là thực hiện công việc đó vì phần thưởng mà người khác sẽ trả cho mình. Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài Khoản 2 Điều 590 “Bộ luật dân sự 2015” quy định “Công việc được hứa thưởng phải cụ thể, có thể thực hiện được, không bị pháp luật cấm, không trái đạo đức xã hội” Người thực hiện công việc hứa thưởng có quyền nhận phần thưởng khi họ đã hoàn thành công việc. Như vậy, sự ràng buộc về nghĩa vụ trả thưởng của người tuyên bố hứa thưởng với người đã thực hiện công việc hứa thưởng chỉ được đặt ra khi người thực hiện công việc hoàn thành công việc. Người tuyên bố hứa thưởng có các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật và được xác định ngay sau khi tuyên bố hứa thưởng – Không được rút lại tuyên bố hứa thưởng khi đã đến hạn thực hiện công việc. Điều 59 “Bộ luật dân sự 2015” chỉ cho phép người hứa thưởng rút lại tuyên bố hứa thưởng khi chưa đến hạn bắt đầu thực hiện công việc và “việc rút lại tuyên bố hứa thưởng phải được thực hiện theo cách thức và trên phương tiện mà việc hứa thưởng đã được công bố” – Người đã công khai hứa thưởng phải trả thưởng cho người đã thực hiện công việc theo yêu cầu của người hứa thưởng. Việc trả thưởng được xác định + Trong trường hợp một công việc được hứa thưởng do một người thực hiện thì khi công việc hoàn thành, người thực hiện công việc đó được nhận thưởng. + Khi một công việc được hứa thưởng do nhiều người cùng thực hiện nhưng mỗi người thực hiện độc lập với nhau thì người hoàn thành đầu tiên sẽ được nhận thưởng. + Trong trường hợp nhiều người cùng hoàn thành công việc được hứa thưởng vào cùng một thời điểm thì phần thưởng được chia đều cho những người đó + Trong trường hợp nhiều người cùng cộng tác để thực hiện công việc được hứa thưởng thì mỗi người được nhận một phần của phần thưởng tương ứng với phần đóng góp của mình. 5. Phân biệt hợp đồng tặng cho có điều kiện và hứa thưởng Thông thường, chúng ta rát dễ nhầm lẫn giữa việc tặng cho có điều kiện và hứa thưởng. Tuy nhiên, pháp luật đã có những quy định rõ ràng để phân biệt được hai loại hợp đồng này. Hợp đồng tặng cho có điều kiện và hứa thưởng có điểm khác nhau cơ bản sau + Hợp đồng tặng cho có điều kiện là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên phải chuyển giao tài sản cho bên được tặng cho, bên được tặng cho phải đồng ý nhận tài sản. + Hứa thưởng là việc một bên đưa ra công việc với những điều kiện nhất định theo ý chí của chính họ và họ có trách nhiệm phải trả thưởng cho người đã hoàn thành công việc. Ngoài ra, hợp đồng tặng cho có điều kiện và hứa thưởng có những điểm khác nhau sau Trên thực tế có rất nhiều trường hợp hứa thưởng nhưng không thực hiện việc trả thưởng cho người đã hoàn thành công việc. Việc hứa thưởng thường mang tính chất bộc phát mà các bên chưa có một quy định rõ ràng nào về việc không thực hiện đúng hành vi trả thưởng. Và việc hứa thưởng thường dựa trên các lời nói bằng miệng, việc chứng minh có hứa thưởng thường rất khó khăn, mất thời gian và tốn kém chi phí. Để hứa thưởng trở thành một khung pháp lý vững chắc cho tất cả các bên, hai bên nên lập hợp đồng hứa thưởng quy định rõ ràng về những vấn đề liên quan đến việc hứa thưởng tránh những tranh chấp không mong muốn xảy ra. LSVN - Bộ luật Dân sự BLDS năm 2005 cũng như năm 2015 quy định về chế định hứa thưởng là một hành vi pháp lý đơn phương. Tuy vậy, trong thực tiễn giải quyết tranh chấp, có nhiều vụ việc hứa thưởng phát sinh nhưng không phải là hành vi pháp lý đơn phương mà là một dạng hợp đồng. Việc phân biệt hứa thưởng là hành vi pháp lý đơn phương hay hợp đồng có vai trò quan trọng trong việc giải quyết đúng đắn vụ án. Qua nghiên cứu, bình luận vụ án về tranh chấp hợp đồng hứa thưởng mà do ông Đặng Đình T. khởi kiện bà Vương Thị K., ông Nguyễn Đắc Q. do Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh giải quyết bản án sau đó bị Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy, giao cho Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sở thẩm lại. Chúng tôi đưa ra một số ý kiến bình luận về vụ án, chế định hứa thưởng, hợp đồng hứa thưởng cũng như một số vấn đề cần rút kinh nghiệm khi giải quyết các vụ án này. Ảnh minh hoạ. Tóm tắt nội dung vụ án Nhà và đất tại số 446-448 Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 3, thành phố Hồ Chí Minh thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của vợ chồng bà Vương Thị K., ông Nguyễn Đắc K. Do gia đình ông K. ra nước ngoài định cư nên căn nhà này được Nhà nước quản lý theo diện nhà vắng chủ. Sau khi ông K. qua đời, năm 2006 bà Vương Thị K. và con trai là ông Nguyễn Đắc Q. bà K. và ông K. có 9 người con nhờ Luật gia Đặng Đình T. tiến hành các thủ tục đòi lại nhà đất nêu trên. Ngày 03/01/2007 bà K., ông Q. và ông T. đã lập Hợp đồng hứa thưởng với nội dung trả thưởng cho ông T. 15% trên tổng giá trị nhà đất mà gia đình bà K. được Nhà nước giao trả khi ông T. đòi được nhà đất nêu trên. Ngày 22/01/2008 và 02/7/2008 bà K., ông Q. và ông T. tiếp tục ký kết phụ lục hợp đồng và bản cam kết với nội dung tăng phần thưởng và thù lao cho ông T. lên 25% và 30%. Ngày 28/11/2011 bà K., ông Q. và ông T. lại ký bản thỏa thuận hứa thưởng với nội dung cam kết trả thưởng cho ông T. 35% giá trị nhà đất đòi được. Sau khi lấy lại được nhà, bà K. cùng con trai là ông Q. đã thực hiện nhiều giao dịch mua bán, cho thuê với căn nhà nhưng không thực hiện hợp đồng hứa thưởng với ông Đặng Đình T. Ông T. đã nhiều lần yêu cầu nhưng phía bà K., ông Q. không thực hiện việc hứa thưởng như đã cam kết. Do đó, ông T. khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà K., ông Q. thực hiện cam kết hứa thưởng. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đều nhận định Hợp đồng hứa thưởng ký kết ngày 28/11/2008 giữa ông T. với bà K., ông Q. là hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội, có chứng nhận của Công chứng viên thuộc Văn phòng Công chứng công tại hạt O, bang C, Hoa Kỳ. Do vậy, yêu cầu của ông T. đòi bà K., ông Q. trả thưởng bằng 35% giá trị nhà đất ông T. đòi được là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên, tại Quyết định giám đốc thẩm số 35/2017/DS-GĐT ngày 07/9/2017 Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã hủy Bản án sơ thẩm và phúc thẩm, giao hồ sơ cho Tòa án thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại. Bình luật Về tố tụng Vụ án này phát sinh một số vấn đề tố tụng cần làm rõ và rút kinh nghiệm, cụ thể như sau Thứ nhất, tài liệu được lập ở nước ngoài, do cơ quan nước ngoài chứng nhận phải được hợp pháp hóa lãnh sự mới có giá trị sử dụng làm chứng cứ Cụ thể, theo Tòa án nhân dân tối cao các phụ lục hợp đồng ngày 22/01/2008, bản cam kết ngày 02/7/2008 và thỏa thuận hứa thưởng ngày 28/11/2008 có nội dung tăng thêm phần hứa thưởng cho ông T. đều được ký tại bang C, Hoa Kỳ và được công chứng viên thuộc phòng công chứng bang C, Hoa Kỳ chứng nhận cùng ngày là chưa đủ cơ sở pháp lý để được coi là chứng cứ vì không được hợp pháp hóa lãnh sự của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam tại Hoa Kỳ, vi phạm khoản 1 Điều 418 Bộ luật Tố tụng dân sự BLTTDS năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011 nay là điểm b khoản 2 Điều 478 BLTTDS năm 2015. Về vấn đề này, trước đây khoản 1 Điều 418 BLTTDS năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011 quy định “Điều 418. Công nhận giấy tờ, tài liệu do cơ quan có thẩm quyền nước ngoài lập, cấp hoặc xác nhận 1. Giấy tờ, tài liệu do cơ quan có thẩm quyền nước ngoài lập, cấp hoặc xác nhận theo quy định của pháp luật nước ngoài hoặc ở ngoài lãnh thổ Việt Nam được Toà án Việt Nam công nhận nếu giấy tờ, tài liệu đó đã được hợp pháp hoá lãnh sự, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác”. Như vậy, theo Tòa án nhân dân tối cao Hợp đồng hứa thưởng ký kết ngày 28/11/2008 giữa ông T. với bà K., ông Q. là tài liệu được lập ở nước ngoài và cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài xác nhận công chứng viên bang C, Hoa Kỳ. Do đó, để sử dụng làm chứng cứ tại Tòa án Việt Nam phải được hợp pháp hóa lãnh sự [1]. Về vấn đề này, có quan điểm cho rằng Quyết định giám đốc thẩm nhận định văn bản cam kết trả thù lao được lập tại Hoa Kỳ trước cơ quan Công chứng nhưng không được hợp pháp hóa lãnh sự nên không có giá trị pháp lý là chưa chính xác. Bởi lẽ, khi bà K., ông Q. lập cam kết với ông T. tại Hoa Kỳ, đó là cam kết giữa cá nhân với cá nhân được cơ quan công chứng của Hoa Kỳ xác nhận nên có hiệu lực thực hiện đối với các cá nhân có liên quan [2]. Quan điểm này có sự nhầm lẫn giữa giá trị pháp lý của Hợp đồng hứa thưởng và việc Hợp đồng hứa thưởng có được sử dụng làm chứng cứ hay không. Cần phân biệt rằng, Hợp đồng hứa thưởng ngày 28/11/2008 giữa bà K., ông Q. với ông T. nếu được ký kết đúng quy định pháp luật, được công chứng viên của Hoa Kỳ chứng nhận là đã có hiệu lực pháp lý, ràng buộc trách nhiệm giữa các bên. Tuy nhiên, để được sử dụng làm chứng cứ trước Tòa án Việt Nam, thì theo quy định của BLTTDS phải được hợp pháp hóa lãnh sự. Nếu chưa hợp pháp hóa lãnh sự thì chưa có giá trị làm chứng cứ trước Tòa án Việt Nam. Tòa án nhân dân tối cao cũng nhận định, do chưa được hợp pháp hóa lãnh sự nên chưa đủ cơ sở pháp lý để được coi là chứng cứ chứ không xác định do chưa được hợp pháp hóa lãnh sự do đó không có giá trị pháp lý đối với các bên. Về vấn đề này, hiện nay điểm b, khoản 2 Điều 478 BLTTDS năm 2015 quy định rõ “Điều 478. Công nhận giấy tờ, tài liệu do cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài gửi cho Tòa án Việt Nam ........ 2. Tòa án Việt Nam công nhận giấy tờ, tài liệu do cá nhân cư trú ở nước ngoài lập trong các trường hợp sau đây a Giấy tờ, tài liệu lập bằng tiếng nước ngoài đã được dịch ra tiếng Việt có công chứng, chứng thực hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam; b Giấy tờ, tài liệu được lập ở nước ngoài được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật nước ngoài và đã được hợp pháp hóa lãnh sự”. Như vậy, theo quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 478 BLTTDS năm 2015 thì đối với các tài liệu do cá nhân cư trú ở nước ngoài lập ở nước ngoài, được công chứng, chứng thực theo quy định của nước ngoài và đã được hợp pháp hóa lãnh sự thì Tòa án công nhận đó là chứng cứ. Khi giải quyết lại vụ án nêu trên, BLTTDS năm 2015 đã có hiệu lực pháp luật. Do đó, Hợp đồng hứa thưởng ký kết ngày 28/11/2008 giữa ông T. với bà K., ông Q. phải được hợp pháp hóa lãnh sự mới được Tòa án công nhận làm chứng cứ. Thứ hai, đương sự không thừa nhận có ký vào các hợp đồng, Tòa án cần giám định chữ ký để có căn cứ giải quyết vụ án Trong vụ án này, bà K. chỉ thừa nhận có ký với ông Đặng Đình T. hợp đồng hứa thưởng ngày 03/01/2007 với mức hứa thưởng là 15% giá trị nhà đất đòi được, còn các thỏa thuận sau về tăng mức hứa thưởng do ông T. xuất trình trong đó có Hợp đồng hứa thưởng ngày 28/11/2008 đều được lập tại Hoa Kỳ bà K. không ký. Theo nhận định của Tòa án nhân dân tối cao thì “Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa xem xét, xác định có đúng bà K., ông Q. ký các thỏa thuận nêu trên hay không”. Tại Thông báo rút kinh nghiệm số 229/TB-VKSTC ngày 31/5/2018 của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao có nêu “Bị đơn bà K. chỉ thừa nhận ký Hợp đồng hứa thưởng ngày 03/01/2007, các văn bản sau đó do ông T. xuất trình Phụ lục hợp đồng ngày 22/01/2008, Bản cam kết ngày 02/7/2008 và Thỏa thuận hứa thưởng ngày 28/11/2008 có nội dung tăng thêm phần thưởng cho ông T. lần lượt là 25%, 30% và 35% đều được ký tại bang C, Hoa Kỳ… Bà K. và ông Q. không thừa nhận việc ký các thỏa thuận này. Lẽ ra, Tòa án cần xem xét, làm rõ có việc bà K., ông Q. ký các giấy tờ nêu trên hay không, trong trường hợp cần thiết thì phải giám định chữ ký của bà K., ông Q. để làm căn cứ giải quyết vụ án”. Như vậy, theo Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao trường hợp này cần phải làm rõ chữ ký trong các văn bản hứa thưởng có phải do bà K., ông Q. ký hay không vì họ không thừa nhận là chữ ký của họ, trường hợp cần thiết phải giám định chữ ký để có cơ sở giải quyết. Về vấn đề này cần lưu ý rằng, do bà K., ông Q. không thừa nhận chữ ký trong các văn bản hứa thưởng đặc biệt là Hợp đồng hứa thưởng cuối cùng ngày 28/11/2008 là của họ. Như vậy, bà K., ông Q. cho rằng, Hợp đồng hứa thưởng ngày 28/11/2008 mà ông T. xuất trình là giả vì không phải họ ký. Do đó, theo quy định tại khoản 1 Điều 103 BLTTDS năm 2015 thì bà K., ông Q. cho rằng đây là chứng cứ giả thì có quyền yêu cầu Tòa án giám định chữ ký. Nếu đương sự không có yêu cầu thì Tòa án có thể tự mình ra Quyết định giám định chữ ký trong trường hợp này từ đó có cơ sở giải quyết vụ án một cách triệt để. Thứ ba, cần giải quyết các quan hệ tranh chấp có liên quan mật thiết với nhau trong cùng một vụ án Theo nhận định của Tòa án nhân dân tối cao, trong vụ án này, có nhiều quan hệ tranh chấp hứa thưởng, yêu cầu công nhận giấy ủy quyền, trả tiền đặt cọc, hủy bỏ văn bản khai nhận di sản thừa kế, trả tiền thuê nhà…, nhưng Tòa án cấp phúc thẩm chỉ giải quyết phần hứa thưởng và hủy các quan hệ pháp luật khác và tiếp tục duy trì áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với nhà đất nêu trên để bảo đảm thi hành nghĩa vụ trả thưởng của bà K., ông Q. cho ông T. là không đúng, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự khác. Đồng thời với việc ông T. khởi kiện yêu cầu bà K., ông Q. thực hiện nghĩa vụ trả thưởng. Vụ án này còn nhiều quan hệ tranh chấp khác như yêu cầu công nhận giấy ủy quyền, trả tiền đặt cọc, hủy bỏ văn bản khai nhận di sản thừa kế, trả tiền thuê nhà… Trong đó, nếu chấp nhận yêu cầu về công nhận giấy ủy quyền thì ông T. phải trả cho ông Q. một số tiền cụ thể…. Tuy nhiên, Tòa án cấp phúc thẩm đã giữ nguyên nội dung bản án sơ thẩm về hứa thưởng nhưng hủy các quan hệ pháp luật khác và tiếp tục duy trì biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với căn nhà 446-448 Nguyễn Thị Minh Khai để bảo đảm thi hành án nhưng lại hủy các quan hệ pháp luật tranh chấp khác để giải quyết lại. Điều này có khả năng gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự khác trong vụ án. Lẽ ra, trong vụ án này, Tòa án phải giải quyết đồng thời các quan hệ tranh chấp trong cùng một vụ án và đối trừ nghĩa vụ giữa các đương sự thì mới bảo đảm quyền lợi của họ theo quy định tại Điều 38 BLTTDS năm 2004 sửa đổi, bổ sung 2011 nay là Điều 42 BLTTDS năm 2015. Đây là vấn đề tố tụng cần lưu ý khi giải quyết các vụ án có nhiều quan hệ tranh chấp nhưng liên quan mật thiết với nhau hoặc có thể đối trừ nghĩa vụ với nhau giữa các đương sự. Về nội dung Thứ nhất, quan hệ hứa thưởng giữa ông Đặng Đình T. với bà Vương Thị K., ông Nguyễn Đắc Q. trong vụ án này là quan hệ hợp đồng, không phải hứa thưởng như BLDS đã ghi nhận. Cần khẳng định rằng, các bản thỏa thuận hứa thưởng mà ông T. đã ký với bà K., ông Q. là một hợp đồng. Theo đó, các bên thỏa thuận rõ quyền và nghĩa vụ của nhau. ông T. sẽ đại diện bà K., ông Q. để tiến hành các thủ tục cần thiết nhằm đòi lại căn nhà 446-448 Nguyễn Thị Minh Khai, thành phố Hồ Chí Minh. Nếu ông T. đòi được, bà K., ông Q. phải trả cho ông T. thù lao tương ứng với 35% giá trị nhà đất đòi được. Có thể thấy, đây là quan hệ hợp đồng dịch vụ chứ không phải là chế định hứa thưởng theo quy định của BLDS. Bởi lẽ Một là, hứa thưởng là một dạng hành vi pháp lý đơn phương. BLDS năm 2005 cũng như BLDS năm 2015 đều xác định tính đơn phương của việc hứa thưởng thông qua các nội dung như người hứa thưởng tự đưa ra điều kiện thưởng, tự công khai công việc hứa thưởng, được rút lại tuyên bố hứa thưởng khi chưa đến hạn bắt đầu thực hiện công việc… Nếu là quan hệ hợp đồng dịch vụ thì phải có sự thỏa thuận giữa các bên về điều kiện công việc, thù lao dịch vụ,... Trong vụ án này, giữa ông T. và bà K., ông Q. thỏa thuận cụ thể về nội dung công việc ông T. phải làm, thù lao sau khi đạt được công việc mức thù lao tăng qua các lần ký kết hợp đồng… do đó, cần nhận thức và xác định rõ đây là quan hệ hợp đồng dịch vụ giữa ông T. với bà K., ông Q. Hai là, BLDS năm 2015 đã tách “hứa thưởng và thi có giải” thành một chương riêng, không còn là một mục nằm trong chương “các hợp đồng thông dụng” như BLDS năm 2005. Điều này cho thấy nhà làm luật đã xác định rõ bản chất khác nhau giữa quan hệ hứa thưởng và quan hệ hợp đồng. Như vậy, trong vụ án này và rộng hơn, khi giải quyết các tranh chấp có liên quan đến việc hứa thưởng. Cần xem xét thỏa thuận hứa thưởng của các bên để xác định các quy phạm pháp luật điều chỉnh. Đối với vụ án này, không thể áp dụng các quy định về hứa thưởng tại mục 13 từ Điều 590 đến Điều 592 BLDS năm 2005, nay là Điều 570 đến Điều 572 BLDS năm 2015 để giải quyết mà phải áp dụng các quy định về hợp đồng để giải quyết. Thứ hai, về tính hợp pháp của thỏa thuận hứa thưởng Như trên chúng tôi đã phân tích, nếu chúng ta xác định quan hệ trong vụ án này là quan hệ hứa thưởng thì chỉ cần áp dụng các quy định về hứa thưởng để giải quyết. Còn nếu xác định là quan hệ hợp đồng hợp đồng hứa thưởng hay hợp đồng dịch vụ thì trước hết phải xem xét đến hiệu lực của hợp đồng thông qua các quy định trong phần chung BLDS về các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Trong vụ án này, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao đều cho rằng, nhà và đất tại 446-448 Nguyễn Thị Minh Khai có nguồn gốc của vợ chồng bà Vương Thị K. và ông Nguyễn Đắc K., ông K. chết năm 2004 không để lại di chúc. Ông K. và bà K. có 9 con chung nhưng tại các thỏa thuận hứa thưởng chỉ có bà K. và một người con là ông Q. ký mà không có chữ ký hay ý kiến của 8 người con còn lại, đã làm thiệt hại đến quyền lợi của họ. Lẽ, ra, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm phải hỏi ý kiến của 8 người con còn lại về việc trả thưởng cho ông T. như thế nào để làm căn cứ giải quyết vụ án. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét các nội dung trên mà chỉ căn cứ vào “Thỏa thuận hứa thưởng” ngày 28/11/2008 được lập tại bang C, Hoa Kỳ để buộc bà K., ông Q. trả cho ông T. 35% giá trị nhà, đất tương đương đồng là chưa đủ căn cứ. Như vậy, theo Tòa án nhân dân tối cao, do đây là quan hệ hợp đồng, nên cần xem xét đến ý chí của 8 người con còn lại của ông K. và bà K. Nếu không được sự đồng ý của họ thì khả năng hợp đồng không được chấp nhận hiệu lực. Quan điểm này cần cân nhắc bởi các lý do sau Việc bà K., ông Q. ký cam kết hứa thưởng với ông Đặng Đình T. để ông T. tiến hành các thủ tục đòi lại nhà 446-448 Nguyễn Thị Minh Khai không những không làm thiệt hại đến quyền lợi của 8 người con còn lại của bà K. mà còn làm lợi cho họ. Bởi lẽ, chính từ cam kết hứa thưởng này, ông T. đã tiến hành các thủ tục cần thiết để đòi lại nhà cho gia đình bà K. và thực tế đã đòi được. Việc đòi được nhà không những mang lại quyền lợi cho bà K., ông Q. mà còn là quyền lợi của 8 người con còn lại. Tại thời điểm ký cam kết hứa thưởng này, nhà đất chưa được Nhà nước công nhận thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng của gia đình bà K., sau khi ký cam kết hứa thưởng, ông T. thực hiện công việc và đã đòi được nhà đất cho gia đình bà K. Việc hứa thưởng là thỏa thuận tự nguyện giữa bà K., ông Q. với ông T.. Tòa án buộc bà K., ông Q. trả thưởng cho ông T. căn cứ vào hợp đồng mà các bên đã ký kết chứ không buộc 8 người con còn lại trả thưởng cho ông T. Việc các bên thỏa thuận mức hứa thưởng là 35% giá trị nhà và đất không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của 8 người con còn lại những người không tham gia hứa thưởng. Bởi lẽ, các bên chỉ dùng 35% giá trị nhà đất làm mức hứa thưởng, là cơ sở để xác định mức hứa thưởng. Điều này khác với việc bà K., ông Q. chuyển nhượng hay định đoạt 35% nhà đất cho ông T. Thực tế, Tòa án đã xác định 35% giá trị nhà và đất tương ứng với đồng và buộc bà K., ông Q. phải trả cho ông T. số tiền đó chứ không phải buộc bà K., ông Q. phải làm thủ tục chuyển nhượng cho ông T. 35% nhà và đất. Như vậy, 35% giá trị nhà và đất chỉ là căn cứ để các bên tham gia hợp đồng xác lập mức hứa thưởng, đây là hợp đồng giữa bà K., ông Q. với ông T., 8 người con còn lại không tham gia xác lập hợp đồng, do đó, không cần phải hỏi ý kiến họ. Từ những phân tích nêu trên, chúng tôi cho rằng, khi giải quyết lại vụ án, Tòa án cần khắc phục những vi phạm về mặt tố tụng và giải quyết triệt để các quan hệ pháp luật có tranh chấp trong vụ án này. Theo đó, cần chấp nhận đối với yêu cầu của ông Đặng Đình T. buộc bà Vương Thị K. và ông Nguyễn Đắc Q. trả thưởng mà không cần xem xét ý kiến của 8 người con còn lại của ông K., bà K. Tuy nhiên, do nhà và đất tại số 446-448 Nguyễn Thị Minh Khai nêu trên thuộc quyền sở hữu, sử dụng của các đồng thừa kế gồm bà K. và 9 người con còn lại. Do đó, cần đưa họ vào tham gia tố tụng và nếu chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T. thì quá trình thi hành án cần xác định quyền sở hữu, sử dụng của bà K., ông Q. trong khối tài sản chung với 8 đồng thừa kế còn lại để thi hành án nhằm bảo đảm quyền lợi của họ. =================== [1] Hiện nay, Việt Nam và Hoa Kỳ chưa ký Điều ước về miễn hợp pháp hóa lãnh sự/chứng nhận lãnh sự. [2] truy cập lần cuối ngày 06/6/2021. Thạc sĩ NGUYỄN THỊ VÂN ANH Trường Đại học Luật, Đại học Huế Giải quyết tranh chấp trong hợp đồng nhượng quyền thương mại

hợp đồng hứa thưởng